Giãn thận thời kỳ bào thai: Cách nào phát hiện?

Thận ứ nước hay giãn thận của thai nhi có thể được chẩn đoán rất sớm từ 3 tháng đầu thai kỳ. Tình trạng này rất thường gặp ở các trung tâm siêu âm chẩn đoán trước sinh, có thể lên đến 1% ở thai nam và 0,5% ở thai nữ trong số tất cả các thai nhi được chẩn đoán và thường không đi kèm với các bất thường khác của thai nhi.

Nguyên nhân do đâu?

Có nhiều nguyên nhân gây giãn thận từ thời kì bào thai, nhưng đa số là không có nguyên nhân cụ thể.

Giãn thận sinh lý: Tình trạng giãn thận chỉ là thoáng qua tại thời điểm siêu âm. Đa số các trường hợp giãn thận phát hiện từ thời kì bào thai là thuộc trường hợp này. Tình trạng giãn sẽ không tăng thêm hoặc dần cải thiện qua thời gian, có thể đến một vài năm sau khi trẻ sinh ra.

Một số hình ảnh tắc nghẽn đường niệu.

Một số hình ảnh tắc nghẽn đường niệu.

Giãn thận do tắc nghẽn niệu quản. Vị trí thường gặp nhất là ở vị trí nối giữa bể thận và niệu quản, tỉ lệ gặp là 1/1.000 trẻ. Vị trí niệu quản đổ vào bàng quang, tỉ lệ gặp khoảng 1/2.500 trẻ.

Tắc nghẽn niệu đạo: Tắc nghẽn niệu đạo lâu ngày sẽ làm bàng quang căng, không co bóp đẩy nước tiểu ra ngoài được, dần dần ảnh hưởng đến niệu quản và bể thận.

Thận - niệu quản đôi: Bình thường mỗi người chỉ có 1 thận - 1 niệu quản ở một bên cơ thể, tuy nhiên, có khoảng 1% số người có nhiều hơn 1 niệu quản xuất phát từ một thận, trường hợp này gọi là thận - niệu quản đôi. Hầu hết đều không có triệu chứng gì và không ảnh hưởng đến sức khỏe Tuy nhiên, tắc nghẽn của niệu quản và thận phụ (thông thường ở phía trên thận chính) có thể gặp ở 1/5.000 trẻ. Siêu âm chẩn đoán trước sinh có thể thấy hình ảnh giãn một phần thận. Niệu quản phụ này thường bị tắc ở vị trí đổ lạc chỗ vào bàng quang, gây giãn niệu quản ngoằn ngoèo và túi phình chèn vào lòng bàng quang.

Thận đa nang: Thận đa nang có nguyên nhân do sự tắc nghẽn hoàn toàn của niệu quản từ thời kỳ bào thai, thận đa nang không thể bài tiết nước tiểu và không phát triển bình thường. Thông thường chỉ gặp ở một bên thận và thận bên kia thường phát triển mạnh để bù trừ nên chức năng thận tổng thể vẫn hoàn toàn bình thường.

Trào ngược bàng quang - niệu quản: Gặp ở 5 - 25% số trường hợp phát hiện giãn thận trước sinh. Sự trào ngược kéo dài có thể làm giãn niệu quản, bể thận và làm cho trẻ có nguy cơ cao bị nhiễm khuẩn đường tiết niệu

Theo dõi trong thời kỳ bào thai

Trong đa số các trường hợp, chỉ cần theo dõi bằng siêu âm trong suốt thời kỳ thai nhi Quá trình mang thai sẽ không bị ảnh hưởng gì bởi tình trạng này, cũng như thời gian dự kiến sinh, phương pháp sinh (đẻ thường hay đẻ mổ). Tuy nhiên, các bà mẹ cần ghi nhớ tình trạng của con để thông báo cho bác sĩ siêu âm chẩn đoán trước sinh mỗi khi đi kiểm tra. Và tốt nhất, nên sinh ở các cơ sở y tế lớn, có điều kiện chẩn đoán và hội chẩn với các bác sĩ ngoại nhi ngay từ khi bé mới sinh ra đời.

Theo dõi sau sinh

Sau khi bé được sinh ra, tại các bệnh viện sản lớn, luôn luôn có các bác sĩ chuyên khoa sơ sinh sẽ thăm khám cho bé, mục đích là để phát hiện sớm các dị tật bẩm sinh nếu có (ẩn tinh hoàn lỗ đái thấp thoát vị bẹn,...).

Bé cần được siêu âm kiểm tra dị tật bẩm sinh hệ tiết niệu trong vòng một tuần đầu sau sinh, tốt nhất là vào ngày thứ 3 để đánh giá mức độ giãn thận và tắc nghẽn đường tiết niệu Không nên tiến hành siêu âm quá sớm, bởi vì trẻ sơ sinh trong những ngày đầu sẽ diễn ra sự mất nước sinh lý bể thận có thể tự nhỏ đi vì thế nên không phản ánh đúng tình trạng bệnh lý nếu có. Dựa trên kết quả siêu âm, bác sĩ chuyên khoa ngoại nhi sẽ đánh giá và đưa ra phương pháp điều trị thích hợp.

Điều trị thế nào?

Trẻ bị trào ngược bàng quang - niệu quản có thể cần phải điều trị kháng sinh dự phòng để đề phòng bệnh lý nhiễm khuẩn tiết niệu thời gian điều trị phụ thuộc vào tình trạng trào ngược và được quyết định bởi bác sĩ.

Có thể trẻ sẽ cần phải phẫu thuật nếu có dấu hiệu rõ ràng của sự tắc nghẽn đường tiết niệu siêu âm kiểm tra phát hiện tình trạng giãn thận nặng lên, kết hợp với các triệu chứng của nhiễm khuẩn tiết niệu tái đi tái lại nhiều lần.

Với trẻ bị thận đa nang thận bên kia đa số bình thường và đảm bảo đủ chức năng. Trừ khi thận này gây triệu chứng, ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ (ví dụ như quá to gây chèn ép vào phổi hoặc đường tiêu hóa hoặc nghi ngờ phát triển thành khối u ), không thì có thể điều trị bảo tồn, không cần can thiệp phẫu thuật khi trẻ còn quá nhỏ. Bác sĩ sẽ theo dõi tình trạng thận trong vòng 6 tháng đến một năm và quyết định cắt bỏ khi thích hợp.

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật