Bạn biết gì về huyết khối tĩnh mạch sâu? (Kỳ 1) Hãy tìm hiểu thêm nhé!

KỲ 1: Huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới và tắc mạch phổi huyết khối

Huyết khối tĩnh mạch (HKTM) sâu chi dưới và tắc mạch phổi huyết khối (TMPHK) là 2 yếu tố cấu thành của cùng một bệnh đó là bệnh HKTM. Gần 30% các trường hợp tắc mạch phổi được xác định là có nguyên nhân do HKTM sâu chi dưới, không có biểu hiện triệu chứng, di chuyển lên và ở các bệnh nhân HKTM sâu có triệu chứng, tần suất TMPHK không triệu chứng chiếm tới 40 - 50%. HKTM và các biến chứng của nó thì cao hơn rõ rệt ở thai phụ so với người không mang thai với tỉ lệ mắc vào khoảng 0,76 - 1,72 ca /1.000 thai phụ, tăng gấp 4 lần so với nhóm không có thai.

Các yếu tố nguy cơ của HKTM

Trong thời kỳ có thai, có rất nhiều yếu tố gây nên sự hình thành HKTM sâu chi dưới. Thường có một tình trạng tăng đông ở phụ nữ có thai do tốc độ sinh fibrinogen tăng lên trong khi sự tiêu fibrinogen lại giảm; do nồng độ các yếu tố đông máu II, VII, VIII, X tăng cao; do nồng độ protein S giảm và có tình trạng kháng protein C hoạt hóa mắc phải (protein S và C là 2 chất chống đông tự nhiên trong cơ thể).  

Tốc độ dòng máu chậm lại khoảng 50% so với bình thường ở chi dưới xảy ra từ tuần 25 - 29 của thời kỳ có thai và tồn tại tới 6 tuần sau đẻ làm tăng khả năng đông máu tạo huyết khối. Thêm vào đó, sự hiện diện của các yếu tố thrombophilias di truyền và hội chứng kháng phospho lipid tiền sử bị HKTM làm tăng nguy cơ HKTM sâu ở thời kỳ có thai và sau đẻ.  

Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm phụ nữ da đen, bệnh tim bệnh hồng cầu hình liềm bệnh đái tháo đường lupus ban đỏ hệ thống hút thuốcđa thai bất động nhiều trước khi đẻ, có tình trạng nhiễm khuẩn hoặc liệt cơ, tuổi thai phụ trên 35 béo phì mổ lấy thai (đặc biệt khi mổ cấp cứu).

Biểu hiện của HKTM sâu chi dưới

Các triệu chứng kinh điển của HKTM và TMPHK thường là phù chi đau chi, mạch nhanh, thở nhanh và khó thở Tuy nhiên, những triệu chứng này cũng thường có ở thai phụ bình thường. Các tiêu chuẩn chẩn đoán huyết khối động mạch phổi ở người bình thường dường như không được chính xác khi áp dụng chẩn đoán ở thai phụ.

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật