Một số loại thuốc bôi ngoài da thường dùng và những lưu ý khi sử dụng thuốc

Các thuốc dùng để bôi tại chỗ điều trị bệnh ngoài da được sử dụng rất phổ biến. Thế nhưng đã mấy ai biết được thuốc tác dụng như thế nào và cần có những lưu ý gì khi sử dụng?

Thuốc bôi ngoài da ảnh hưởng tới tuần hoàn da, gây giãn mạch hoặc co mạch. Tuỳ theo dạng thuốc và tá dược thuốc sẽ ngấm vào da nhiều hay ít, nông hay sâu. Khi dùng thuốc bôi ngoài da cần chú ý đến tác dụng lý hoá học của thuốc như thuốc làm thay đổi pH của da, có thể ảnh hưởng đến quá trình oxy hoá khử trong tế bào do sử dụng thuốc khử oxy hoặc nhượng oxy.

Thuốc bôi ngoài da còn có tác dụng toàn thân, gây nên những biến đổi sinh học nhất định, do thuốc ngấm vào da, vào máu, tác động lên đầu dây thần kinh thụ cảm ngoại vi, hoặc tác động lên các trung tâm của thần kinh thực vật. Như vậy, thuốc bôi ngoài da có cả tác dụng tại chỗ và và toàn thân, chỉ định và sử dụng thuốc bôi ngoài da cần hết sức cẩn thận. 

Sự hấp thu của thuốc qua da phụ thuộc vào trạng thái lớp sừng, lớp mỡ bao phủ lên da, trạng thái các phần phụ của da, độ kiềm toan của da, đặc tính của các hoạt chất được sử dụng, dạng thuốc và dung môi được dùng, phản ứng của các thuốc đó trên da và hiện tượng phân ly ion của chúng. Ảnh hưởng và tác dụng phối hợp các yếu tố trên sẽ quyết định mức hấp thu của da và tác dụng của các loại thuốc bôi ngoài da.

Các thuốc thường dùng

Thuốc sát khuẩn: Dung dịch thuốc sát khuẩn dùng để ngâm rửa, đắp gạc các thương tổn da trợt loét nhiễm khuẩn chảy dịch, có mủ vẩy tiết như chốc lây eczema cấp nhiễm khuẩn…. Ví dụ: dung dịch rivanol 1%o, dung dịch jarish (thành phần gồm axit boric glycerin nước cất), dung dịch becberin, NaCl 9%o, nước lá bàng, nước lá chè tươi.

Đối với các dung dịch thuốc màu như tím gentian 1%, xanh metylen 1%, cestellani, milian... dùng để bôi vào các tổn thương da trợt loét, nhiễm khuẩn. Các loại kem mỡ kháng sinh như mỡ chlorocid 1%, tetracylin 1%, kem silverin fucidin bactroban dùng bôi vào các tổn thương bệnh lý căn nguyên do vi khuẩn hoặc nhiễm khuẩn khi tổn thương đã se khô.

Thuốc trị ghẻ: Dùng dầu DEP (diethylphtalat ), kem eurax, dung dịch pemethrin 1%, dầu benzyl benzoat 33%, mỡ diêm sinh 10% (cho trẻ em) và 30% (cho người lớn).

Thuốc trị nấm hắc lào, nấm lang ben nấm kẽ chân: Dùng cồn BSI 1%, 2,3%, cồn ASA, mỡ benzosali, mỡ clotrimazol 1%, kem nizoral, lamisil

Thuốc trị eczema, viêm da: Các dung dịch ngâm rửa, đắp gạc (đã nói ở trên) dùng cho eczema cấp trợt loét, chảy dịch, nhiễm khuẩn 3-5 ngày đầu. Các dung dịch thuốc màu bôi các tổn thương trợt loét, nhiễm khuẩn 7-10 ngày đầu.

Hồ nước có tác dụng làm mát da, giảm viêm sát khuẩn làm khô tổn thương, che chắn bảo vệ vùng tổn thương, bôi ngày 2 - 3 lần dùng cho viêm da eczema cấp. Kem mỡ chứa corticoid (như eumovat, tempovate, temproson, mỡ flucinar….bôi eczema viêm da giai đoạn bán cấp và mạn tính. Ngoài ra còn có thể bôi một số loại kem chứa corticoid kết hợp với kháng sinh hoặc chống nấm…

Và lưu ý

Sử dụng thuốc bôi ngoài da phải phù hợp với tính chất bệnh lý, giai đoạn bệnh, mức độ bệnh, vùng da, có khi cả tuổi, giới, thời tiết, nghề nghiệp… thì mới có hiệu quả cao. Ví dụ: đối với bệnh eczema cấp đang viêm trợt, chảy dịch, mủ, vảy tiết chỉ cần dùng các dung dịch đắp gạc, ngâm, rửa hoặc thuốc màu... Nhưng đối với giai đoạn eczema mãn phải dùng dạng mỡ giảm viêm, giảm cộm, bạt sừng…

Do thuốc bôi không những có tác dụng tại chỗ mà còn có tác dụng toàn thân, tác động lên toàn bộ cơ thể nên dùng phải hết sức thận trọng.

Không nên bôi một thuốc thời gian quá dài, cũng không nên liên tục thay thuốc làm khó đánh giá kết quả điều trị, cũng như nhận định chẩn đoán đúng sai... Thường một đợt bôi thuốc khoảng 10- 15 ngày. Theo dõi kỹ bệnh nhân trong thời gian dùng thuốc để có thể điều chỉnh kịp thời và theo dõi phản ứng da của từng bệnh nhân vì thuốc bôi có thể gây dị ứng

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật