Đừng quá lo lắng khi người cao tuổi mắc đục thủy tinh thể

Ðục thủy tinh thể là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa trên phạm vi toàn cầu và thường xảy ra ở người cao tuổi. Cho đến nay phương pháp điều trị có hiệu quả nhất vẫn là phẫu thuật.

Thế nào là đục thể thủy tinh?

Thể thủy tinh là một thấu kính trong suốt ở bên trong con mắt. Nó góp 1/3 vào năng lực hội tụ của nhãn cầu. Công suất hội tụ của thể thủy tinh được đảm bảo khi nó còn trong suốt, các mặt cong và độ dày còn nằm trong giới hạn sinh lý Ngoài ra, thể thủy tinh còn có chức năng lọc tia tử ngoại - tia có hại có trong phổ bức xạ của mặt trời. Khi các phân tử protein không hòa tan bị tích tụ trong thể thủy tinh cùng với tuổi tác thì tính trong suốt của nó không còn nữa. Các tia sáng khi đi qua vùng bị đục sẽ bị tán xạ mạnh gây giảm thị lực. Đục thể thủy tinh được coi là đáng kể khi nó làm giảm thị lực xuống còn dưới 3/10.

Đục thể thủy tinh là nguyên nhân thứ hai gây giảm thị lực trên phạm vi toàn cầu, chỉ sau tật khúc xạ Những tiến bộ về kỹ thuật và phương tiện phát triển như vũ bão đã làm số lượng các ca phẫu thuật loại này tăng đến chóng mặt Đây là loại phẫu thuật được tiến hành nhiều nhất, nhanh nhất và ít chảy máu nhất.

Ðiều trị bằng phẫu thuật

Cho đến nay, phương pháp điều trị có hiệu quả duy nhất vẫn là phẫu thuật. Hiện nay, tại các trung tâm nhãn khoa lớn của nước ta, kỹ thuật mổ PHACO đã trở thành phổ biến. Ưu điểm của nó quá rõ ràng: vết mổ nhỏ, đặc biệt trong kỹ thuật PHACO lạnh chỉ còn là 2mm, thị lực phục hồi nhanh chóng, xuất viện trong ngày, tỷ lệ biến chứng ít. Chính vì vậy số lượng bệnh nhân được mổ đục thể thủy tinh theo phương pháp này ngày càng tăng. Tất nhiên cũng cần nhắc tới một vài yếu tố khác như tuổi thọ tăng và chỉ định mổ đã rộng rãi hơn nhiều so với trước.

Cần chuẩn bị gì khi phẫu thuật?

Chỉ định mổ đục thủy tinh thể chủ yếu dựa vào mức độ giảm thị lực. Nhưng cần xác định rõ ràng đục thể thủy tinh là nguyên nhân chính gây giảm thị lực chứ không phải là những yếu tố bệnh lý khác. Khi khám bệnh, các bác sĩ sẽ phải luôn cân nhắc có sự tương hợp hay không giữa tính chất và mức độ đục thể thủy tinh với mức độ giảm thị lực. Tựu trung, thị lực kém hơn 4/10 sẽ được xem xét để chỉ định phẫu thuật. Cũng cần quan tâm đến những yếu tố khác như tuổi của người bệnh, tính chất công việc, điều kiện sống, nhu cầu dùng mắt hàng ngày... để thúc đẩy hay trì hoãn can thiệp phẫu thuật.

Một bệnh nhân trước khi phẫu thuật, ngoài việc được thăm khám về chuyên khoa mắt kỹ càng, còn được truy tìm bệnh toàn thân. Điều này rất cần thiết cho quyết định mổ, tiên lượng thị lực sau mổ, ngăn ngừa các biến chứng cũng như điều trị dự phòng. Điều này giải thích tại sao trước khi mổ chúng ta lại cần làm tới 7-8 xét nghiệm.

Một phẫu thuật can thiệp tối thiểu, không gây đau đớn

Đây là loại phẫu thuật can thiệp tối thiểu, gần như không chảy máu rất ít hoặc không đau đớn. Một số bệnh nhân đặc biệt như bệnh nhân tâm thần hoặc rung giật nhãn cầu có thể cần gây mê để phẫu thuật, còn lại là gây tê tại chỗ.

Trước khi mổ, bệnh nhân nên tắm gội sạch sẽ, cắt tóc nếu có búi tóc thì nên tháo xuôi búi tóc, ăn nhẹ. Một giờ trước khi vào phòng mổ bệnh nhân sẽ được nhỏ thuốc giãn đồng tử thuốc tê thuốc sát trùng Nếu có các bệnh mạn tính như huyết áp đái tháo đường hen suyễn thì nên dùng các thuốc toàn thân như bình thường. Bên cạnh đó, vẫn sẽ có các bác sĩ gây mê hồi sức theo dõi bạn trong suốt quá trình phẫu thuật.

Sau khi gây tê gần như bạn không có cảm giác đau nhưng khó chịu nhất là cứ phải nhìn thẳng vào ánh đèn khá chói của máy sinh hiển vi. Bệnh nhân nên tuân thủ chính xác các yêu cầu của phẫu thuật viên về tư thế đầu, tư thế mắt.

Khâu chuẩn bị khá công phu và căng thẳng như vậy thế nhưng thời gian phẫu thuật trung bình chỉ là 20-30 phút, khá nhanh chóng và êm ái. Khoảng 95% bệnh nhân sau mổ thị lực trên 5/10.

Việc chăm sóc sau mổ

Khi phẫu thuật đục thủy tinh thể bệnh nhân thường xuất viện sớm nên rất ít có cơ hội được giải thích, chăm sóc tỉ mỉ. Khi về nhà, bệnh nhân có thể thấy mình có những biến đổi và khó chịu sau đây: mi mắt bị phù, chút xuất huyết trên lòng trắng, mắt cộm và chói, lòng đen có đám phù đục...

Những vấn đề trên, với các thuốc mà bạn đã được bác sĩ kê đơn về sử dụng sẽ biến mất trong vòng 3-5 ngày. Các cảm giác như chảy nước mắt, cộm mắt, đỏ mắt nhẹ có thể tồn tại đến tuần thứ 6 sau phẫu thuật. Những biến chứng nặng tuy rất hiếm gặp như: nghẽn đồng tử xuất huyếtviêm nội nhãn sẽ gây những triệu chứng cấp tính, rầm rộ khiến bạn phải quay lại bệnh viện ngay, đó là: đau nhức, nhìn mờ nhanh, đỏ mắt nhiều, có thấy chớp sáng hoặc cảm giác ruồi bay trước mắt.

Bệnh nhân nên lưu ý thực hiện những chỉ dẫn sau đây trong thời gian hậu phẫu:

Thực hiện y lệnh thuốc men chính xác, rửa tay sạch sẽ trước khi tra nhỏ thuốc, tự học cách tra nhỏ thuốc. Các thuốc nước nên nhỏ cách nhau 5 phút, thuốc mỡ tra sau cùng, sau nhỏ đậy ngay nắp thuốc để chống nhiễm bẩn lọ thuốc.

Trong vài ngày đầu đừng để xà phòng vào mắt, vì vậy nên kiêng tắm gội. Chỉ nên lau mặt nhẹ nhàng bằng khăn ẩm đã giặt sạch.

Có thể cạo râu như bình thường, có thể tắm phần dưới cổ sau một ngày, tắm toàn thân trong bồn hoặc tắm dưới vòi hoa sen sau một tuần.

Ăn uống như bình thường, tuy vậy nên kiêng các đồ ăn quá cứng phải nhai mạnh và nhiều.

Không day dụi hoặc gãi mắt, băng mắt trong một tuần hoặc dùng khiên che mắt vào ban đêm. Ban ngày có thể đeo kính râm, vừa làm êm dịu mắt, vừa tránh nhiễm bẩn cho mắt.

Không mang vác nặng hay cúi đầu nhiều, có thể xem tivi như thường lệ.

Trang điểm, tham gia các hoạt động vui chơi giải trí lái xe và quay về công việc như thường sau một tháng.

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật