Các biến chứng mắt ở bệnh nhân đái tháo đường, bạn phải biết!

Tăng đường máu trực tiếp gây tổn thương và phá hủy các mạch máu ở võng mạc, vì vậy bệnh võng mạc được coi là biến chứng đặc hiệu của ĐTĐ.

Vì sao bị biến chứng mắt?

Võng mạc giống như 1 cái máy quay phim, có thể ghi nhận lại tất cả các hình ảnh, nhưng khác với máy quay phim là nó còn có khả năng chuyển các hình ảnh này thành các tín hiệu điện tử mà não có thể nhận biết và giải mã được. Trong võng mạc có 1 vùng nhỏ có tác dụng ghi nhận những hình ảnh nhỏ, những chi tiết rất sắc nét gọi là hoàng điểm (macula). Võng mạc và hoàng điểm được nuôi dưỡng bởi nhiều mao mạch nằm ở trong và phía sau võng mạc.

Tăng đường máu trực tiếp gây tổn thương và phá hủy các mạch máuvõng mạc vì vậy bệnh võng mạc được coi là biến chứng đặc hiệu của ĐTĐ. Ngoài ra, các  bệnh nhân ĐTĐ cũng có nguy cơ cao bị các bệnh mắt khác như đục thủy tinh thể glaucoma, tắc động mạch võng mạc... Biến chứng mắt tuy không gây chết người nhưng lại cực kỳ nguy hiểm vì thường gây tàn phế và làm mất khả năng lao động. Ở các nước châu Âu và Mỹ, biến chứng mắt do bệnh ĐTĐ là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa ở những người trong độ tuổi lao động (20 - 65 tuổi). Ngay khi được phát hiện ĐTĐ đã có khoảng 20% số BN có biến chứng mắt, còn sau khi bị bệnh từ 10 năm trở lên thì có tới 3/4 số BN sẽ bị biến chứng mắt. 

Các yếu tố chính dự đoán bệnh võng mạc ở BN ĐTĐ là thời gian bị bệnh kiểm soát đường huyết kém, tăng huyết áp và rối loạn mỡ máu Các yếu tố khác là có thai thiếu máu và có bệnh lý thận đi kèm.

Các biến chứng mắt ở bệnh nhân đái tháo đường

Bệnh võng mạc do ĐTĐ:

Đường máu cao gây tổn thương, phá hủy thành các mao mạch ở đáy mắt, ảnh hưởng đến tính thấm các mao mạch này, hậu quả là dịch từ trong lòng mạch thoát ra ngoài gây xuất huyếtphù nề Nếu gây phù ở hoàng điểm thì có thể làm giảm thị lực rất nhiều. Bản thân các mao mạch bị phá hủy và bị tắc gây thiếu máu ở võng mạc, khi đó cơ thể sẽ có phản ứng sinh ra một số yếu tố kích thích sự hình thành các mao mạch mới phát triển mạnh cả vào hậu phòng (khoang chứa dịch kính). Các mạch máu mới này rất dễ vỡ và thường gây xuất huyết nặng từ giai đoạn sớm làm đục dịch kính. Các mạch máu mới cũng gây ra các vết sẹo xơ ở võng mạc và trong quá trình liền sẹo có thể co rút gây ra bong võng mạc làm mất thị lực vĩnh viễn. Hậu quả của phù hoàng điểm, đục dịch kính bong võng mạc làm mắt bị giảm hoặc mất khả năng thu nhận các tín hiệu ánh sáng, biểu hiện lâm sàng là giảm thị lực hoặc mất thị lực hoàn toàn.

Tùy thuộc vào mức độ tổn thương các mạch máu ở võng mạc mà người ta chia bệnh võng mạc ở BN ĐTĐ làm 2 giai đoạn: sớm là bệnh võng mạc không tăng sinh (chưa có các mạch máu mới) và muộn là bệnh võng mạc tăng sinh (đã có các mao mạch mới). Điều đặc biệt nguy hiểm là đa số các BN ĐTĐ không thấy có bất cứ triệu chứng gì về mắt cho đến khi đột nhiên bị mất thị lực. Khi đó, dù có được điều trị rất tích cực và tốn kém thì khả năng bảo tồn được thị lực là rất nhỏ, phần lớn các BN sẽ bị mù vĩnh viễn. Chính vì vậy, các BN ĐTĐ cần đi khám mắt định kỳ, tốt nhất là 6 tháng/1 lần và được khám bởi bác sĩ chuyên khoa mắt.

Thiên đầu thống (Glaucoma):

Các BN ĐTĐ có nguy cơ bị thiên đầu thống cao gấp 1,4 lần người bình thường, nguy cơ này sẽ tăng lên ở những BN tuổi cao và có thời gian bị bệnh ĐTĐ dài. Thiên đầu thống 1 hoặc cả 2 mắt xảy ra khi áp lực trong mắt tăng lên và trong phần lớn các trường hợp, dịch kính sẽ bị thoát ra ngoài. Áp lực cao sẽ chèn ép vào các mạch máu nuôi võng mạc và dây thần kinh thị giác (dây thần kinh số I), hậu quả là vùng võng mạc và dây thần kinh bị phá hủy gây mất thị lực. Các BN bị thiên đầu thống thường có triệu chứng đau đầu nhiều, đặc biệt đau dữ dội hốc mắt, đo nhãn áp thường rất cao.

Đục thủy tinh thể:

Đục thủy tinh thể là bệnh có thể gặp nhiều ở những người không bị ĐTĐ, nhất là ở những người cao tuổi. Tuy nhiên, người bệnh ĐTĐ có nguy cơ bị đục thủy tinh thể cao hơn 1,6 lần và đục thủy tinh thể xuất hiện ở lứa tuổi trẻ hơn. Đôi khi đục thủy tinh thể xuất hiện ở các BN ĐTĐ týp 1 trẻ tuổi và tiến triển rất nhanh, thường là sau một giai đoạn kiểm soát đường máu kém.

Đục thủy tinh thể nặng sẽ ngăn cản ánh sáng đi qua, gây giảm thị lực, đồng thời cũng gây khó khăn cho việc khám và phát hiện bệnh võng mạch ở các BN ĐTĐ vì rất khó có thể quan sát được đáy mắt và hậu phòng.

Trường hợp bị đục thủy tinh thể nhẹ thì có thể chỉ cần đeo kính râm thường xuyên khi đi nắng là đủ, ngoài ra có thể nhỏ mắt các loại thuốc có tác dụng hạn chế tiến triển của đục thủy tinh thể. Nếu đục thủy tinh thể nặng, có ảnh hưởng nhiều đến thị lực thì cần phải mổ thay thủy tinh thể. Lưu ý là ở một số BN mổ thay thủy tinh thể không cải thiện được thị lực do BN có đồng thời cả bệnh võng mạc nặng.

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật