Cảnh báo nguy cơ mắc bệnh nguy hiểm sau sinh, các ông bố chú ý mẹ nhé

Bệnh sa sinh dục tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng có thể ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt hàng ngày.

Sa sinh dục (sa dạ con hay sa tử cung) là hiện tượng tử cung sa xuống thấp trong âm đạo hoặc sa hẳn ra ngoài âm hộ. Bệnh gặp nhiều ở những chị em đã từng sinh nở nhất là những người sinh thường nhiều lần. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là những người chưa từng sinh con không có nguy cơ.

Nguyên nhân dẫn đến sa sinh dục chủ yếu là do chức năng của cây dây chẳng vùng xương chậu tử cung bị suy yếu, không làm tốt chức năng giữ cho tử cung ở vị trí đúng.

Để hiểu hơn về nguy cơ bị sa sinh dục sau khi sinh, bạn hãy tham khảo thông tin sau:

Triệu chứng

Triệu chứng tuỳ thuộc vào mức độ của bệnh. Triệu chứng thường là khó chịu, nặng bụng dưới, đái rắt, đái són, đái không tự chủ, có khi đại tiện khó.

Chẩn đoán

Hỏi bệnh sử và khám thực thể.

Chẩn đoán chủ yếu dựa trên khám lâm sàng.

Xét nghiệm phiến đồ cổ tử cung: loại trừ tổn thương ác tính cổ tử cung.

Thăm dò niệu động học: khảo sát tình trạng són tiểu

Điều trị

Đối với những trường hợp sa sinh dục ở mức độ nhẹ thì có thể điều trị nội khoa với các biện pháp: thể dục liệu pháp, đeo dụng cụ đỡ tử cung chất dẻo dùng Estrogrn, ngâm tầng sinh môn và khối sa sinh dục hàng ngày trong dung dịch sát trùng Trong trường hợp nặng hơn có thể cần phẫu thuật.

Tổng quan bệnh Sa sinh dục

Sa sinh dục còn gọi là sa tử cung nhưng gọi sa sinh dục thì đúng hơn, vì trong nhiều trường hợp không những chỉ sa tử cung, mà còn sa cả thành trước âm đạo kèm theo có sa bàng quang và sa cả thành sau âm đạo kèm theo trực tràng

Sa sinh dục là một bệnh khá phổ biến ở phụ nữ Việt nam, nhất là phụ nữ ở nông thôn, trong lứa tuổi từ 40 - 50 trở lên chiếm khoảng 5 - 8%. Đây là bệnh không nguy hiểm đến tính mạng, nhưng lại ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt, lao động của phụ nữ. Bệnh thường gặp ở những người chửa đẻ nhiều, đẻ quá sớm, quá dày và những lần đẻ trước không không được đỡ đẻ an toàn, đúng kỹ thuật.

Nguyên nhân bệnh Sa sinh dục


Chửa đẻ nhiều lần, đẻ dày, đẻ không được đỡ đẻ an toàn đúng kỹ thuật, rách tầng sinh môn không khâu.

Lao động nặng hoặc quá sớm sau đẻ làm tăng áp lực ổ bụng, đè vào đáy chậu còn mềm yếu dễ gây nên sa sinh dục.

Các nguyên nhân gây tăng áp lực ổ bụng thường xuyên: mang vác, gánh gồng nặng táo bón trường diễn ho kéo dài những người bán hàng rong thường xuyên ngồi bệt trên lề đường…

Rối loạn dinh dưỡngngười già hệ thống treo và nâng đỡ tử cung suy yếu.

Ngoài ra có thể do cơ địa bẩm sinh ở người chưa đẻ lần nào.

Phòng ngừa bệnh Sa sinh dục

Không nên đẻ sớm quá, đẻ nhiều quá, đẻ dày quá. Phải đẻ ở nơi có điều kiện đỡ đẻ an toàn, đỡ đẻ đúng kỹ thuật.

Không nên để chuyển dạ quá dài, không để rặn đẻ quá lâu.

Các thủ thuật sản khoa phải làm đúng chỉ định, đúng kỹ thuật và đủ điều kiện tránh gây sang chấn cho âm đạo và tầng sinh môn.

Nếu rách tầng sinh môn, dù nhỏ cũng phải khâu lại.

Sau đẻ không nên lao động quá sớm và quá nặng.

Cần phát hiện và điều trị sớm các bệnh mãn tính gây tăng áp lực ổ bụng thường xuyên (táo bón trường diễn ho kéo dài…) là nguyên nhân dẫn đến sa sinh dục.

Điều trị bệnh Sa sinh dục


1. Điều trị nội khoa

Chỉ định:

Với sa sinh dục độ I.

Sa độ II, III nhưng bệnh nhân quá già, hoặc có bệnh toàn thân chống chỉ định phẫu thuật, hoặc bệnh nhân quá trẻ.

Cách điều trị:

Cho đeo dụng cụ đỡ tử cung bằng chất dẻo (Pessarium).

Dùng Estrogen tác dụng đơn thuần ở âm đạo.

Thể dục liệu pháp.

Ngâm tầng sinh môn và khối sa sinh dục hàng ngày trong các dung dịch sát trùng, nước chè xanh nước sắc lá trầu không có tác dụng làm săn se niêm mạc âm đạo, chống viêm.

Điều trị các biến chứng nếu có.

2. Điều trị ngoại khoa

Phẫu thuật là phương pháp chủ yếu trong điều trị sa sinh dục.

Chỉ định: Sa sinh dục độ II và độ III, nghĩa là những trường hợp sa sinh dục có triệu chứng cơ năng mới cần phẫu thuật.

Trước phẫu thuật cần đánh giá đầy đủ các yếu tố sau:

Tuổi, thể trạng và các bệnh lý toàn thân:

Bệnh nhân sa sinh dục thường cao tuổi nên thể trạng thường không tốt, có thể quá béo, quá gầy; có thể có các bệnh toàn thân như thiếu máu bệnh tim mạch hô hấp huyết áp cao, tiểu đường… Đôi khi các yếu tố này sẽ là yếu tố chống chỉ định mổ hoặc cần điều trị trước khi mổ.

Không nên mổ cho những bệnh nhân quá trẻ hoặc quá già, trừ khi sa quá nhiều và thể trạng cho phép.

Mức độ sa sinh dục.

Ảnh hưởng của sa sinh dục đến các cơ quan lân cận: tình trạng sa bàng quang sa trực tràng; rối loạn tiểu tiện đại tiện?

Tình trạng âm đạo cổ tử cung bình thường hay viêm nhiễm. Nếu có viêm cổ tử cung âm đạo cần đặt thuốc và vệ sinh hàng ngày trước mổ.

Tử cung, hai phần phụ có u cục không?

Bụng có vết mổ cũ không? Tiên lượng mức độ dính vùng tiểu khung?

Bệnh nhân còn nhu cầu sinh đẻ không? Còn quan hệ tình dục không?

Điều kiện trang bị của cơ sở y tế và trình độ phẫu thuật viên.

Lưu ý: Cần khám phát hiện các bệnh lý toàn thân như bệnh tim phổi mãn tính huyết áp cao… để điều trị nội khoa ổn định trước khi phẫu thuật sa sinh dục.

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật