Ung thư cổ tử cung - những điều mọi chị em phải biết rõ

Ung thư cổ tử cung (UTCTC) là một trong những bệnh ung thư phụ khoa thường gặp ở phụ nữ. Đây cũng là một trong những căn bệnh gây tử vong hàng đầu trong các loại ung thư ở phụ nữ hiện nay. Vẫn còn rất ít người biết rằng đây là ung thư có thể phòng ngừa được bằng những biện pháp không hề phức tạp như tiêm ngừa để phòng tránh virus gây bệnh và khám phụ khoa, làm xét nghiệm tế bào âm đạo định kỳ.

Gánh nặng

UTCTC có thể xảy ra với bất kỳ ai và đặc biệt, bệnh thường tấn công vào phụ nữ ở 35-40 tuổi trở lên. Với phụ nữ ngày nay, đây là giai đoạn cực kỳ quan trọng trong cuộc đời, bởi đây là độ tuổi mà chị em phụ nữ đảm nhiệm nhiều thiên chức lớn lao, họ đã làm vợ làm mẹ là người chăm sóc chính cho gia đình, đồng thời đã tạo dựng được sự nghiệp của mình.

Nhiều năm làm việc trong ngành sản phụ khoa, tiếp xúc với nhiều bệnh nhân, tôi nhận thấy những chị em bị ung thư cổ tử cung phải gánh chịu nhiều ảnh hưởng lớn về thể chất và tinh thần Ngay khi nhận một kết quả xét nghiệm bất thường hay chẩn đoán có những tổn thương tiền ung thư chất lượng cuộc sống của người phụ nữ đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Họ hoang mang, lo lắng, suy sụp tinh thần, nảy sinh những suy nghĩ tiêu cực, lo lắng về khả năng sống còn của bản thân, kèm theo những nỗi lo cho gia đình, tài chính, về khả năng chăm sóc con cái, khả năng mang thai và hạnh phúc gia đình khi điều trị. Đó là chưa kể những gánh nặng tâm lý mà toàn thể gia đình của bệnh nhân phải gánh chịu, cũng như gánh nặng về tài chính khi mất nguồn thu nhập trong gia đình, phí tổn không nhỏ cho việc điều trị.

Nguyên nhân gây bệnh

Nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung đến nay đã được xác định là virus HPV (tên đầy đủ là Human Papillomavirus). Đây là virus rất dễ lây lan và hầu hết mọi phụ nữ đều có nguy cơ nhiễm virus này. Trung bình cứ 10 phụ nữ thì có đến 8 người có thể từng một lần nhiễm HPV trong đời.

Tuy nhiên, không phải cứ nhiễm HPV là bị ung thư cổ tử cung Nhiều chị em nhiễm virus HPV rồi tự hết mà không cần điều trị. Một số khác nhiễm lâu dài với những loại HPV có khả năng gây ung thư qua nhiều năm thì các tổn thương sẽ dần dần tiến triển ở cổ tử cung và trở thành ung thư. Những loại HPV gây ra ung thư cổ tử cung nhiều nhất là HPV 16, 18, 31, 45. 4 tuýp này là thủ phạm gây ra hơn 80% các ca ung thư cổ tử cung.

Biểu hiện của UTCTC

Ung thư cổ tử cung không xảy ra đột ngột mà trải qua các giai đoạn từ nhiễm virus đến những bất thường ở cổ tử cung, các tổn thương tiền ung thư rồi đến ung thư. Các giai đoạn này diễn ra trong khoảng thời gian khá dài, trung bình từ 10 đến 15 năm.

Điều đáng lưu ý là các giai đoạn này diễn tiến âm thầm, và giai đoạn tiền ung thư hầu như không có triệu chứng gì, do đó chị em không nhận biết mình mắc bệnh nếu không đi khám phụ khoa. Khi đã ở những giai đoạn muộn, người mắc UTCTC có những biểu hiện như ra huyết trắng có mùi hôi, có lẫn máu chảy máu âm đạo sau giao hợp hoặc sau khi làm việc nặng dù không phải ngày hành kinh, hoặc nặng hơn có thể chảy dịch có lẫn máu ở âm đạo, kèm theo đau bụng đau lưng, vùng chậu và chân.

Nếu chị em thấy mình có bất kỳ dấu hiệu nào kể trên thì hãy đến gặp bác sĩ ngay. Không nên coi thường và bỏ qua những triệu chứng này. Khi các triệu chứng bị bỏ qua thì ung thư sẽ có thời gian để tiến triển đến những giai đoạn muộn hơn và việc điều trị sẽ càng khó khăn.

Biện pháp phòng ngừa

Điều đáng mừng, đây là một loại ung thư có thể phòng ngừa được. UTCTC nguy hiểm và nặng nề như vậy, nhưng để phòng ngừa căn bệnh này lại không quá khó. Có hai cách phòng ngừa là tiêm vaccin để phòng nhiễm các tuýp HPV gây UTCTC và khám tầm soát ung thư cổ tử cung bằng phết tế bào cổ tử cung định kỳ cho những phụ nữ đã có quan hệ tình dục Việc phòng ngừa đạt kết quả cao nhất khi kết hợp 2 phương pháp này.

Hiện nay, tại Việt Nam đã có vaccin ngừa những tuýp HPV gây ung thư phổ biến n hất, được tiêm cho phụ nữ trẻ dưới 26 tuổi, kể cả người chưa và đã có quan hệ tình dục đều có thể tiêm. Bên cạnh đó những chị em đã có gia đình cần thực hiện khám phụ khoa và tầm soát bằng phương pháp phết tế bào cổ tử cung (PAP smear) định kỳ, ít nhất 1 năm/1 lần, để phát hiện kịp thời và có giải pháp điều trị ở những giai đoạn sớm của bệnh.

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật