Ăn nhiều khoai tây liên quan tới tiểu đường thai nghén

Một nghiên cứu của Mỹ chỉ ra rằng những phụ nữ ăn nhiều khoai tây trước khi mang thai dễ bị tiểu đường thai nghén.

Nguy cơ bị tiểu đường thai nghén tăng 27% nếu thường xuyên ăn nhiều hơn khoảng 450-900g khoai tây một tuần trước khi mang bầu.

Nếu ăn nhiều hơn một kg, rủi ro sẽ lên đến 50% ngay cả khi các nhà nghiên cứu đã tính đến yếu tố béo phì trước thai kỳ và các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn khác.

Theo tác giả chính của nghiên cứu, tiến sĩ Cuilin Zhang, từ Viện Sức khỏe Trẻ em và Phát triển Con người Mỹ phụ nữ càng ăn nhiều khoai tây càng dễ bị tiểu đường thai kỳ

Khoai tây là rau củ nhưng không phải tất cả rau củ đều lành mạnh khoai tây là loại lương thực được tiêu thụ nhiều thứ ba thế giới, sau gạo và lúa mì Khoai tây rất giàu vitamin C kalichất xơ

Tuy nhiên, bên cạnh đó nó cũng chứa nhiều carbohydrate đơn dễ bị chuyển hóa và hấp thu vào máu. Theo các chuyên gia dinh dưỡng của Đại học Harvard, ăn khoảng 225g khoai tây làm tăng đường huyết ngang với khi uống một lon nước có ga hoặc nhai một nắm kẹo dẻo. Đường huyết cao làm tăng kháng insulin góp phần gây nên tiểu đường týp 2.

Để nghiên cứu, TS Zhang và đồng nghiệp đã thu thập dữ liệu của gần 16.000 phụ nữ từng tham gia vào một nghiên cứu quốc gia. Sau 10 năm theo dõi, nhóm nghiên cứu đã phát hiện gần 900 trường hợp tiểu đường thai nghén trên tổng số 22.000 ca sinh một thai.

Kiểm tra bảng hỏi về dinh dưỡng các nhà nghiên cứu nhận thấy mối liên quan giữa ăn khoai tây và tiểu đường thai nghén.

Họ cũng ước tính rằng phụ nữ có thể giảm 9% tới 12% nguy cơ tiểu đường thai nghén nếu họ thay khoai tây trong bữa ăn bằng các loại rau củ khác hay ngũ cốc nguyên cám.

Trên hết, các nhà nghiên cứu cho rằng bà bầu có thể ăn khoai tây nhưng đừng ăn quá nhiều, mấu chốt là chỉ ăn vừa phải.

Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ chỉ ra mối liên quan giữa ăn khoai tây và nguy cơ tiểu đường thai nghén, một loại bệnh tiểu đường phát triển trong thời kỳ mang thai Nghiên cứu này không được thiết kế để chứng minh quan hệ nhân quả.

Những kết quả từ nghiên cứu này được công bố trực tuyến trên tờ BMJ.

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật