Rối loạn chuyển hóa bẩm sinh: Giảm hoạt độ phosphatase

Mức độ nặng có thể dao động từ tử vong thời kỳ trước và sau sinh cho tới các vấn đề về răng hoặc gãy xương ở tuổi trưởng thành.

Biểu hiện lâm sàng rối loạn chuyển hóa

HPP được chia làm 5 loại tùy thuộc độ tuổi lúc chẩn đoán bệnh. Nói chung, tuổi lúc chẩn đoán bệnh càng nhỏ thì mức độ bệnh càng nặng. Mức độ nặng có thể dao động từ tử vong trong thời kỳ trước và sau sinh cho tới các vấn đề về răng hoặc gãy xương ở tuổi trưởng thành.

Phân loại:

- HPP trước và sau sinh biểu hiện với các đặc điểm lâm sàng ghi nhận được lúc mới sinh hoặc trước khi sinh dựa trên việc siêu âm thời kỳ mang thai Khám lâm sàng sẽ thấy những bất thường xương rõ rệt bao gồm dị dạng lồng ngực, xương ngắn hoặc xương dài gập khúc. Xương bị giảm hàm lượng khoáng chất sẽ dễ dàng phát hiện khi chụp X-quang. Dạng HPP này gần như gây tử vong ngay sau sinh.

- HPP trẻ nhỏ được chẩn đoán lúc 6 tháng tuổi. Những thay đổi đặc trưng của bệnh còi xương thấy trên phim chụp X-quang và thường bị gãy xương Trẻ phát triển không bình thường, và một số trẻ sẽ bị co giật đáp ứng với vitamin B6. Tăng canxi huyết và lắng đọng canxithận cũng được mô tả. Tỷ lệ tử vong do HPP trước và sau sinh là đáng kể.

Bệnh nhân HPP sau 24 tuần điều trị

Bệnh nhân HPP sau 24 tuần điều trị

- HPP trẻ em được chẩn đoán khi bệnh biểu hiện sau 6 tháng tuổi. Trẻ thường chậm phát triển vận động và có bệnh cơ. Đặc điểm hay gặp của HPP trẻ em là mất răng sữa sớm (trước 5 tuổi) với chân răng còn nguyên vẹn. Hình ảnh X-quang thấy những thay đổi của bệnh còi xương và thường một đường thấu xạ kéo dài từ sụn tăng trưởng vào hành xương.

- HPP người lớn có thể biểu hiện gãy xương bàn chân tái phát hoặc chậm lành hoặc giả gãy dưới mấu chuyển xương đùi. Nhiều người trưởng thành bị HPP đã có các triệu chứng từ khi còn nhỏ, nhưng không được chẩn đoán cho đến khi trưởng thành.

-  Giảm hoạt độ phosphatase răng là dạng ít nghiêm trọng nhất của HPP, được chẩn đoán khi xuất hiện các bất thường của răng nhưng không có các bệnh xương khác, như bệnh còi xương hoặc nhuyễn xương.

Xét nghiệm

Kết quả xét nghiệm để phát hiện HPP là nồng độ phosphatase kiềm trong máu thấp. Trong bối cảnh thực tế lâm sàng thích hợp, nồng độ phosphatase kiềm thấp là bằng chứng rõ ràng để chẩn đoán HPP.

Khi giải thích kết quả của thông số phosphatase kiềm, điều quan trọng là áp dụng theo từng độ tuổi và giới tính Trẻ em có nồng độ phosphatase kiềm cao hơn đáng kể so với người lớn, và do đó việc chẩn đoán có thể bị bỏ qua nếu áp dụng tham chiếu dành cho người lớn.

Những xét nghiệm thêm nhằm hỗ trợ cho việc chẩn đoán bao gồm tăng canxi máu, tăng phosphat huyết và tăng canxi niệu, đặc biệt với các dạng bệnh ở trẻ nhỏ và trẻ em.

Một bé gái tên Evie bị HPP

Một bé gái tên Evie bị HPP

Chụp X-quang

Tình trạng giảm nghiêm trọng hàm lượng khoáng chất trong xương thấy ở những bệnh nhân mắc dạng bệnh thời kỳ trước và sau sinh và trẻ em. HPP trẻ em sẽ thấy những thay đổi xương của bệnh còi xương và một đường thấu xạ kéo dài từ sụn tăng trưởng vào hành xương. Ở người trưởng thành, thường phát hiện thấy gãy xương bàn chân, giả gãy xương đùi hoặc lắng đọng pyrophosphate canxi. Buồng tủy sưng to có thể thấy khi chụp X-quang răng.

Kết quả mô học

Tổ chức mô xương khác nhau phụ thuộc vào độ tuổi mắc bệnh và mức độ nghiêm trọng của bệnh. HPP trẻ nhỏ thấy khoáng hóa xương khiếm khuyết nghiêm trọng với những tế bào giống xương cấu tạo phần lớn mô xương. Mặt khác, bệnh nhân bị HPP trẻ em và người lớn với biểu hiện ít nghiêm trọng có thể không có bằng chứng khiếm khuyết khoáng hóa.

Sinh thiết mào xương chậu từ các dạng HPP trẻ em và người lớn nghiêm trọng hơn thường chứng minh là nhuyễn xương, với các vùng tế bào xương không khoáng hóa và không hấp thu tetracycline. Tuy nhiên, kết quả nhuyễn xương có thể không đồng đều, với tế bào xương tích tụ trên một số bề mặt, trong khi các bề mặt xương khác thấy khoáng bình thường. Thể tích vỏ não và xương xốp là bình thường trong HPP người lớn. 

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật