Bệnh của người làm vườn, cần hết sức chú ý phòng tránh

Người làm vườn thường hay bị mắc bệnh do nhiễm loại nấm sporothrix schenckii. Bệnh gây ra gọi là sporothrichosis, thường gặp ở nam giới, khỏe mạnh, dưới 30 tuổi, ít gặp ở trẻ em.

Đặc điểm “bệnh của người làm vườn”

Loại nấm sporothrix schenckii gây bệnh sporothrichosis hay gardeners disease, còn gọi là “bệnh của người làm vườn”, đã được nhà khoa học Schenck phát hiện và mô tả trường hợp lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 1898. Đến năm 1912, hai nhà khoa học Beumann và Gougerot mô tả chi tiết được hình dạng của nấm. Bệnh xuất hiện ở khắp nơi trên thế giới, chủ yếu tại Mỹ, Mexico; ngoài ra còn thấy ở Pháp, Liên Xô cũ, Nam Phi... Ở Việt Nam, bệnh này thường hay gặp ở miền Bắc.

 

Nấm sporothrix schenckii là một loại nấm lưỡng dạng. Ở thiên nhiên, nấm thường sống trong đất và trên các cây, xâm nhập vào da người qua các vết xây xát; đôi khi chúng có thể xâm nhập vào người qua đường hô hấp

Nấm có thể gây tổn thương ở da, tổ chức dưới da và hệ thống bạch huyết lân cận cũng có thể gây tổn thương ở các cơ quan khác như mạch máu xương, cơ hệ thần kinh trung ương, phổi hay hệ sinh dục - tiết niệu.

Thể bệnh ở da - bạch huyết là thể bệnh hay gặp nhất, tổn thương thường gặp ở vùng da hở ở cẳng tay, cánh tay... Tại chỗ da bị gai đâm hoặc trầy xước, sau một thời gian xuất hiện cục sần cứng; lúc đầu di động, sau đó trở nên dính, mềm dần rồi loét, chảy mủ sền sệt màu vàng. Dọc theo mạch bạch huyết từ dưới lên trên xuất hiện các tổn thương mới tiến triển như tổn thương ban đầu. Mạch bạch huyết bị sưng, dày như một sợi dây nhỏ ở dưới da. Tuy bị tổn thương viêm loét nhưng bệnh nhân thường không sốt, không đau

Thể bệnh da đơn thuần hiếm gặp hơn. Người bệnh có tổn thương dạng sùi như hạt cơm hay mụn cóc có thể thành khối u to, loét, có dịch tiết hoặc mủ nhưng không lan ra mạch bạch huyết.

Thể bệnh lan tỏa cũng hiếm gặp, chủ yếu gặp ở những người bị suy giảm miễn dịch Bệnh nhân thường biểu hiện mệt mỏi ho sốt nhẹ, tổn thương thùy trên của phổi; có thể ho ra máu dần dần tạo thành hang ở phổi. Thông thường người bệnh có những biểu hiện ở các cơ quan khác, đặc biệt là ở da và xương; có thể gặp áp xe não viêm màng não

Thể bệnh nguyên phát ở phổi do hít phải bào tử nấm vào phổi. Thể bệnh này có thể không hiếm nhưng chẩn đoán rất khó nên thường bị bỏ qua, không chú ý. Biểu hiện lâm sàng và chụp phim X-quang thấy có các triệu chứng, dấu hiệu giống bệnh lao như có hạch ở khí quản, rốn phổi và bị thâm nhiễm phổi, có thể có hang.

Chẩn đoán xác định bệnh

Việc chẩn đoán xác định bệnh do bị nhiễm loại nấm sporothrix schenckii thường căn cứ vào kết quả xét nghiệm cận lâm sàng ngoài các triệu chứng lâm sàng như đã nói ở trên. Các xét nghiệm sau đây được thực hiện:

- Xét nghiệm trực tiếp với bệnh phẩm là mủ, dịch mủ chỗ bị tổn thương nhưng thường khó phát hiện được nấm.

- Sinh thiết mô nhuộm PAS (Periodic acid schiff), GMS (Gomori methenamin silver) có thể thấy những thể sao “asteroid bodies”, những tế bào nấm hình ovale, hình điếu thuốc xì gà.

- Phương pháp nuôi cấy ở hai nhiệt độ để phát hiện hai dạng của nấm, nấm kháng cycloheximid. Dạng sợi: khi nuôi cấy trong môi trường sabouraud ở nhiệt độ từ 20 - 26oC, nấm có thể phát triển sau từ 3 - 7 ngày; khuẩn lạc phẳng, màu kem. Khoảng một tuần sau, khuẩn lạc trở nên nhăn nheo và chuyển màu đen. Soi dưới kính hiển vi thấy những sợi nấm mảnh, có vách ngăn, phía trên có các bào tử nấm hình cầu hay hình ovale có kích thước từ 2 - 3µm x 3 - 6µm, đứng thành từng đám giống như bông hoa.

Dạng men: khi nuôi cấy trên môi trường dịch chiết tim có 10% máu ở nhiệt độ 37oC, khuẩn lạc giống với khuẩn lạc của vi khuẩn có màu vàng hay xám nhạt. Soi dưới kính hiển vi thấy tế bào nấm men có kích thước khoảng từ 1 -3µm x 8 - 10µm, gần giống điếu thuốc xì gà.

- Phương pháp chẩn đoán miễn dịch có thể thực hiện thử test ở da bằng cách dùng 0,1ml kháng nguyên sporotrichin đã được pha loãng 2.000 lần làm test. Đọc kết quả sau 48 giờ. Quan sát thấy đường kính nốt sẩn lớn hơn 3 cm là dương tính. Phương pháp này chủ yếu dùng để điều tra dịch tễ học. Ngoài ra, có thể dùng phương pháp phản ứng ngưng kết, kết tủa hoặc cố định bổ thể để chẩn đoán.

- Phương pháp gây nhiễm động vật có thể thực hiện bằng cách gây nhiễm nấm cho chuột, chó, mèo... Bệnh phẩm được tiêm vào ổ bụng tinh hoàn của vật thí nghiệm. Sau một thời gian, lấy mủ ở đuôi hoặc dịch tinh hoàn ở vật thí nghiệm để nhuộm Gram, soi dưới kính hiển vi có thể phát hiện thấy tế bào nấm men giống điếu thuốc xì gà.

Điều trị và phòng bệnh

 

Đối với thể bệnh gây tổn thương da, bệnh thường đáp ứng tốt với dung dịch kali iodure bão hòa. Đến nay, dung dịch iodure kali vẫn được dùng để điều trị loại nấm này; tăng dần liều dùng từ 2 đến 4, 6, 12g trong ngày; dùng trong nhiều tuần liền. Có thể kết hợp điều trị bằng thuốc chống nấm như intraconazole 400mg mỗi ngày hoặc terbinafine 250mg dùng 2 lần mỗi ngày sẽ có hiệu quả nhưng cần phải được điều trị kéo dài. Cần duy trì việc điều trị ít nhất một tháng sau khi các tổn thương của da đã lành hẳn.

Đối với thể bệnh lan tỏa, dung dịch iodure kali ít có tác dụng trong điều trị. Có thể sử dụng thuốc chống nấm như intraconazole hoặc amphotericin B để điều trị trong những trường hợp này. Cách phòng bệnh có hiệu quả nhất là sử dụng các phương tiện bảo hộ khi lao động trực tiếp tiếp xúc với đất, các loại cây có gai nhằm tránh bị trầy xước và vết thương...

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật