Nhận diện và điều trị bệnh tăng huyết áp và đái tháo đường hiệu quả

Tăng huyết áp (THA) và đái tháo đường (ĐTĐ) là hai bệnh ngày càng phổ biến ở những nước phát triển nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Hai bệnh này có thể độc lập hoặc có mối liên quan với nhau. Nhiều nghiên cứu cho thấy THA và ĐTĐ thường song hành cùng nhau vì chúng có cùng những yếu tố nguy cơ như: thừa cân hoặc béo phì; chế độ ăn nhiều chất béo, nhiều muối, đường; lười vận động.

THA là một yếu tố làm tăng mức độ nặng của ĐTĐ, ngược lại ĐTĐ cũng làm cho THA trở nên khó điều trị hơn. Người ta thấy rằng tỷ lệ THA ở người ĐTĐ cao gấp 2 lần so với người không bị ĐTĐ. Ở bệnh nhân ĐTĐ týp 1 (cơ thể ngừng sản xuất insulin hoặc sản xuất quá ít không đủ để điều hòa lượng đường trong máu), THA thường là hậu quả của biến chứng thận.

Còn ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 (cơ thể có khả năng sản xuất insulin được nhưng mất một phần hoặc hoàn toàn khả năng sử dụng insulin này), THA có thể xuất hiện trước khi bệnh nhân được chẩn đoán ĐTĐ hoặc được phát hiện đồng thời với ĐTĐ trong bệnh cảnh của hội chứng chuyển hóa Hội chứng này là một nhóm những biểu hiện bất thường về lâm sàng và xét nghiệm bao gồm: THA béo bụng (chu vi vòng eo từ 90cm trở lên ở nam và từ 80cm trở lên ở nữ) rối loạn chuyển hóa lipid (tăng triglycerid, giảm HDL - cholesterol), rối loạn dung nạp glucose Theo một nghiên cứu của Mỹ, có khoảng 65% bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có THA. Dù người bệnh ĐTĐ ở týp 1 hay týp 2, nhưng khi có THA đều làm cho tiên lượng bệnh xấu đi rõ rệt: làm cho tỷ lệ bệnh lý mạch vành và đột quỵ tăng gấp 2 - 3 lần so với người không bị ĐTĐ. THA và ĐTĐ làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh mạch máu lớn và nhỏ: bệnh mạch vành tai biến mạch máu não tắc mạch chi, bệnh võng mạc mắt bệnh thận bệnh lý thần kinh.

Việc làm giảm huyết áp sẽ giúp giảm các nguy cơ trên nên được coi là một mục tiêu quan trọng ở bệnh nhân ĐTĐ có THA (song song với điều chỉnh đường huyết tích cực và làm giảm cholesterol máu). Đã có tác giả cho rằng, việc kiểm soát tốt huyết áp thậm chí còn quan trọng hơn cả kiểm soát đường máu.

Trong nhiều trường hợp THA, bệnh nhân thường không có triệu chứng nên dễ bị bỏ qua nếu không được đo huyết áp kiểm tra. Tuy nhiên, một số trường hợp THA có thể thấy các triệu chứng: đau đầu nhìn mờ đau bụng hoặc đau ngực khó thở chóng mặt buồn nôn Chính vì các triệu chứng thường không rõ ràng và không đặc hiệu như vậy nên những bệnh nhân ĐTĐ cần được kiểm tra huyết áp định kỳ mỗi khi thăm khám tại chuyên khoa ĐTĐ để kịp thời phát hiện và điều trị THA.

Phát hiện bệnh như thế nào?

Chẩn đoán THA khi huyết áp tối đa bằng hoặc lớn hơn 140mmHg và/hoặc huyết áp tối thiểu bằng hoặc lớn hơn 90mmHg.

 Chữa trị có khó không?

Mục tiêu điều trị THA ở người ĐTĐ là huyết áp dưới 130/80mmHg.

Để kiểm soát được huyết áp phải kết hợp giữa biện pháp không dùng thuốc (còn gọi là biện pháp thay đổi lối sống) và dùng thuốc.

Thay đổi lối sống:

Cần được áp dụng trên tất cả các bệnh nhân. Sự thay đổi lối sống không chỉ làm hạ huyết áp mà còn góp phần điều hòa mức đường máu.

Giảm cân nặng nếu bệnh nhân thừa cân hoặc béo phì:

BMI = cân nặng/chiều cao2 (kg/m2)

Bình thường: BMI = 18,5 - 22,9kg/m2 .

Thiếu cân: BMI < 18,5 kg/m2

Thừa cân: BMI = 23 - 24,9kg/m2.

Béo phì: BMI ≥ 25 kg/m2.

Giảm vòng eo: nam < 90 cm, nữ < 80cm.

Ăn nhiều rau xanh, hoa quả tươi (nhưng ít ngọt như thanh long, táo, bưởi) và protein từ thực vật (các chế phẩm từ đậu tương); hạn chế ăn các chất béo và chất béo bão hòa những thực phẩm chứa nhiều cholesterol

Ăn giảm muối (<6g/ngày - tương đương 1 thìa cà phê gạt ngang).

Hạn chế uống rượu bia: không quá 2 ly rượu nhỏ/ngày (30ml), < 750ml bia

Ngừng hút thuốc lá.

Tăng cường hoạt động thể lực: đi bộ nhanh 30 - 45 phút/ngày vào hầu hết các ngày trong tuần. Với người có bệnh tim mạch và các bệnh mạn tính khác cần được bác sĩ chỉ định tập thể dục một cách hợp lý.

Những bệnh nhân có huyết áp tâm thu 130 - 139mmHg hoặc huyết áp tâm trương 80 - 89mmHg cần được áp dụng biện pháp không dùng thuốc đơn độc trong 3 tháng, nếu không đạt được huyết áp mục tiêu thì phải kết hợp với việc dùng thuốc.

Dùng thuốc hạ huyết áp:

Có 5 nhóm thuốc chính hay được sử dụng: ức chế men chuyển, ức chế thụ thể angiotensin II, chẹn kênh calci, lợi tiểu, chẹn beta. Phần lớn bệnh nhân cần phối hợp ít nhất 2 nhóm thuốc để đạt huyết áp mục tiêu.

Ngoài ra có thể sử dụng các nhóm thuốc khác như: Chẹn alpha1 giao cảm; thuốc chẹn alpha và beta giao cảm; nhóm thuốc tác động lên hệ thần kinh trung ương hoạt hóa 1 số tế bào thần kinh, từ đó gây hạ huyết áp.

Điều cần lưu ý là khi bệnh nhân đã đạt được huyết áp mục tiêu vẫn phải tiếp tục duy trì các thuốc huyết áp đang dùng vì nếu bệnh nhân ngừng thuốc thì huyết áp sẽ tăng trở lại.

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật