Căn nguyên dẫn tới viêm loét dạ dày và các nhóm thuốc điều trị

Loét dạ dày - tá tràng (DD-TT) là một bệnh phổ biến ở nước ta. Để điều trị bệnh, các bác sĩ căn cứ nguyên nhân gây bệnh và chọn thuốc phù hợp mới có hiệu quả.

Căn nguyên gây viêm loét DD-TT là gì?

Bệnh về DD-TT có nhiều loại (viêm, loét hẹp môn vị trào ngược dạ dày - thực quản ung thư ) với ba nguyên nhân chính gây nên, đó là do dùng thuốc (kháng viêm chống đau), do ăn uống (rượu, bia) và do vi khuẩn Helicobacter pylori (HP).

Tùy theo nguyên nhân gây bệnh, có hay không vi khuẩn HP sẽ dùng kháng sinh hoặc không. Bên cạnh dùng thuốc kháng sinh nên dùng thuốc chống tăng tiết dịch vị nhằm chống viêm và chống loét...

Sử dụng kháng sinh diệt vi khuẩn HP

Người bệnh cần bắt buộc làm xét nghiệm HP. Khi đã xác định có sự tồn tại của vi khuẩn HP là nguyên nhân gây viêm loét DD-TT cần sử dụng kháng sinh đường uống, không dùng kháng sinh đường tiêm. Nguyên tắc điều trị là phải phối hợp thuốc giảm tiết acid với ít nhất hai loại kháng sinh.

Không dùng một loại kháng sinh đơn thuần. Có thể dùng phác đồ ba thuốc (thuốc ức chế bơm proton (PPI) + hai trong ba loại kháng sinh: clarithromycin amoxicillin metronidazol) hoặc phác đồ 4 thuốc (PPI+ clarithromycin, amoxicillin, metronidazol)...

Hình ảnh tổn thương viêm loét dạ dày.

Hình ảnh tổn thương viêm loét dạ dày.

Thuốc chống tăng tiết dịch vị

Thuốc chống tăng tiết dịch vị có hai loại chính, thuốc ức chế bơm proton và thuốc kháng thụ thể histamine H2. Thuốc ức chế bơm proton thường dùng là omeprazon, lansoprazol, pantoprazol... Các loại thuốc này dễ dàng thâm nhập vào bào tương của tế bào viền tiết dịch vị ở thành của dạ dày, có tác dụng ức chế tiết acid chlohydric  (HCL) bằng cách liên kết không thuận nghịch bơm proton với men kiểm soát tiết HCl ở giai đoạn cuối (H+/K+-ATPase).

Mỗi chất gắn vào một vị trí khác nhau của “bơm”, tạo nên sự khác nhau về cường độ tác dụng. Loại thuốc bơm proton nào cũng có tác dụng chống tiết mạnh và kéo dài, các thế hệ về sau càng có tác dụng mạnh hơn và kéo dài hơn. Do các thuốc được tích lũy trong tế bào viền nên thời gian bán thải thực tế tới 48 giờ, vì vậy, tác dụng xuất hiện từ từ và kéo dài do đó chỉ cần dùng thuốc một lần/ngày.

Các loại thuốc ức chế bơm proton đều kém bền vững trong môi trường acid, do đó được bào chế dưới dạng viên bao tan trong ruột, khi uống thuốc phải nuốt cả viên, chiêu với một cốc nước, không được làm vỡ, không nên bẻ nhỏ hoặc nghiền nát viên thuốc trước khi uống để bảo vệ được dược chất của thuốc.

Mặt khác tế bào viền sẽ tiết ra acid trong bữa ăn, vì vậy, nên uống thuốc ức chế bơm proton trước 30 phút để đưa đến tế bào viền khi nó tiết acid, các acid này sẽ biến các tiền thuốc thành thuốc và phát huy tác dụng (lưu ý không dùng cho phụ nữ mang bầu ba tháng đầu).

Loại chống tiết dịch vị thứ hai là kháng thụ thể histamin - H2 như cimetidin ranitidin, famotidin. Các chất này có cấu trúc gần giống histamin nên cạnh tranh tác dụng của histamin ở thụ thể H2 tế bào vách dạ dày; ức chế tiết dịch acid cơ bản (khi đói) ngày và đêm của dạ dày kể cả tiết dịch acid do kích thích bởi thức ăn, cafein insulin pentagastrin.

Tuy vậy, thời gian tác dụng ngắn, phải uống nhiều lần trong ngày và có thể gây liệt dương (nam giới) nếu dùng kéo dài (riêng cimetidin còn chống chỉ định với phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ cho con bú).

Thuốc kháng acid

Loại thuốc kháng acid (kháng toan) gồm các muối nhôm (hydroxyd, phosphat, carbonat), các muối magnesium (hydroxyd, trisilicat, carbonat), calci carbonat, natricarbonat. Natribicarbonat nay không dùng nữa bởi gây hại dạ dày, tăng tiết gastrin làm cho acid dịch vị (HCl) tiết nhiều hơn trước.

Thuốc kháng acid có nhiệm vụ thực hiện một phản ứng trung hòa HCl tiết ra trong dịch tiêu hóa ở dạ dày, thuốc kháng acid cũng hoạt động như một chất đệm cho acid dạ dày bằng cách làm tăng độ pH, nhằm làm giảm acid ở dạ dày.

Khi dạ dày có quá nhiều acid sẽ gây ra hiện tượng đau loét hệ tiêu hóa Vì vậy, những loại thuốc kháng acid được chỉ định dùng để giảm đau và khó chịu trong các rối loạn về hệ tiêu hóa.

Trong những trường hợp ợ nóng nếu sử dụng những loại thuốc kháng acid thì có thể tạm thời cải thiện được cảm giác nóng rát. Nhưng nếu lại tiếp tục sử dụng thuốc kháng acid thì dạ dày sẽ bị thiếu acid dẫn đến những khiếm khuyết trong quá trình tiêu hóa thức ăn và hấp thụ các chất dinh dưỡng nhất là vitamin nhóm B và sắt. Acid trong dịch tiêu hóa còn có thêm chức năng tiêu diệt một số vi khuẩn có trong thức ăn.

Nếu cứ bị thuốc kháng acid trung hòa hết acid thì dạ dày sẽ “phản ứng” bằng cách tiết ra thêm nhiều acid. Vì vậy, nếu sử dụng những loại thuốc kháng acid một cách vô tội vạ thì lợi bất cập hại.

Thuốc bao phủ niêm mạc dạ dày

Loại thuốc bao phủ niêm mạc DD-TT thông dụng nhất là gastropulgit. Thuốc có tác dụng bao phủ đồng đều, có tác dụng che chở niêm mạc dạ dày tránh tác dụng của dịch vị, làm dễ liền sẹo trên niêm mạc dạ dày, thực quản, đồng thời có tác dụng hấp phụ độc chất và hơi (là những tác nhân gây kích ứng niêm mạc dạ dày).

Thuốc không cản quang (không cần ngưng thuốc trước khi chụp Xquang ổ bụng) và không làm đổi màu phân. Tuy vậy, những người bị suy thận nặng, hẹp ống tiêu hóa, mẫn cảm với thuốc, không sử dụng được. 

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật