Tâm phế mãn: Cách nhận biết căn bệnh ở giai đoạn sớm

Tâm phế mãn (TPM) là một thuật ngữ ít bệnh nhân (BN) biết đến và cũng ít người hiểu biết rõ về chứng bệnh này. Người ta xếp nó vào nhóm bệnh lý tim mạch nhưng đôi khi cũng xem nó là bệnh lý của hô hấp. Về chuyên môn thì TPM là một tình trạng gây ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng của tim phải, mà hậu quả là do biến đổi cấu trúc và chức năng của phổi. Tâm là tim và phế là phổi, tức bệnh tim nhưng nguyên nhân là do phổi. Bệnh này không phải là hiếm gặp mà ngược lại rất hay gặp sau khi bị bệnh phổi mãn tính, nhưng khi chẩn đoán thì được ghi sang thuật ngữ “suy tim”. Chính vì lẽ đó mà ít BN biết rõ được chứng bệnh mà mình mắc phải này.

Bệnh suy tim bên phải có nguyên nhân từ phổi

Các đây hơn 30 năm, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đưa ra định nghĩa về bệnh TPM, đó là sự phì đại của thất phải do các bệnh lý thay đổi cấu trúc và chức năng của phổi (trừ những bệnh lý phổi ảnh hưởng đầu tiên đến tim trái, chẳng hạn bệnh tim bẩm sinh). Nhưng sau đó thì WHO đã chỉnh sửa lại: thay thế “phì đại thất phải” bằng “thay đổi cấu trúc và chức năng thất phải”. Ở những BN bệnh phổi giảm oxy máu thì việc xác định trường hợp nào có thay đổi cấu trúc và chức năng mạch máu phổi cũng như tâm thất phải gặp rất nhiều khó khăn, ngoại trừ tiến hành các kỹ thuật xâm lấn. Vì bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính là nguyên nhân thường gặp nhất của TPM, cho nên khi nói đến TPM người ta hay đề cập đến bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Sự tiến triển của tăng áp động mạch phổi ở BN bệnh phổi giảm oxy máu là quan trọng nhất, nó không chỉ liên quan đến phì đại thất phải mà còn là yếu tố tiên lượng bệnh. Ở Hoa Kỳ và châu Âu, ước tính có khoảng 10-30% BN nhập viện vì suy tim sung huyết là TPM. TPM đứng hàng thứ 3 trong các bệnh tim thường gặp nhất ở người trên 50 tuổi sau cao huyết áp và bệnh tim do xơ vữa mạch máu. Hàng năm, ở Hoa Kỳ có đến 80.000 người tử vong vì bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và con số này ở Vương quốc Anh là 30.000. Tuy nhiên, không thể nào xác định được trường hợp nào có tăng áp lực động mạch phổi.

Chúng ta biết rằng, máu từ tâm thất phải được bơm vào trong động mạch phổi đến mao mạch phổi. Ở mao mạch phổi sẽ có sự trao đổi khí giữa phế nang và mao mạch (máu đen nghèo oxy sẽ biến thành máu đỏ giàu oxy), sau đó máu vào trong tĩnh mạch phổi để trở lại tim và đây là vòng tuần hoàn nhỏ. Khi có thay đổi cấu trúc và chức năng của phổi trong các bệnh phổi mãn sẽ đưa đến tăng áp lực trong động mạch phổi, khi áp lực động mạch phổi tăng, tức tăng sức cản thì tâm thất phải cần phải cố gắng nhiều hơn để đẩy máu ra và vì thế sẽ dẫn đến phì đại tâm thất phải, đưa đến suy tim phải. Các bệnh lý chính hay gặp trong TPM là bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính; bệnh phổi mô kẽ lan tỏa; các hội chứng giảm thông khí và các bệnh mạch máu phổi. Như trên đã nêu thì bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính là nguyên nhân hay gặp nhất của TPM, còn nguyên nhân gây bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính là các bệnh viêm phế quản mạn hen phế quản và khí thủng phổi. Một số bệnh khác cũng gây bệnh phổi tắc nghẽn là xơ hóa phổi giãn phế quản Một số yếu tố nguy cơ gây tăng áp lực động mạch phổi (gây ra TPM) gồm yếu tố giải phẫu gây phá hủy hoặc tắc nghẽn giường mạch máu phổi (khí thủng, xơ hóa, huyết khối) và yếu tố chức năng (giảm oxy phế nang, tăng thán khí và nhiễm toan tăng thể tích máu do đa hồng cầu xẹp ống phế nang).

Tất cả các bệnh lý làm thay đổi cấu trúc và chức năng của phổi đều đưa đến giảm oxy máu (không đáp ứng đủ nhu cầu trao đổi khí của cơ thể). Tình trạng thiếu oxy sẽ dẫn đến co thắt các tiểu động mạch phổi và từ đó dẫn đến tăng áp lực động mạch phổi, áp lực oxy phế nang càng thấp thì sự co thắt tiểu động mạch phổi càng nhiều. Mặt khác, tình trạng suy hô hấp sẽ đưa đến ứ đọng CO2 và gây toan hô hấp toan hóa máu sẽ đưa đến co thắt các tĩnh mạch phổi phối hợp với co thắt tiểu động mạch do thiếu oxy tổ chức, sẽ làm tăng áp lực động mạch phổi.

Phải nhận biết TPM ở giai đoạn sớm

Thật sự thì việc điều trị BN TPM rất hạn chế, vì thế bệnh có tiên lượng không tốt. Vấn đề đặt ra là phải phát hiện ra TPM ở giai đoạn sớm để ngăn chặn tiến triển. Trên một BN bị bệnh phổi mãn tính thì việc xác định có bị rối loạn chức năng thất phải chưa là một việc rất khó khăn, tốt nhất phải phát hiện ở giai đoạn có tăng áp động mạch phổi mà chưa ảnh hưởng tim phải. Các triệu chứng của TPM thường bị che dấu bởi triệu chứng của bệnh phổi mãn, thường là BN có những đợt phù chân đau ngực không điển hình khó thở khi gắng sức, tím ở ngoại vi liên quan gắng sức, có thể ho hoặc tình trạng giảm thông khí ban đêm dẫn đến khó thở khi ngủ, tăng huyết áp nhẹ đau đầu… Một triệu chứng rất hay gặp ở TPM và cũng dễ bị bỏ qua là thở ngắn, cần phải xem ở mức độ hoạt động nào làm cho BN khó thở vì tự BN sẽ giới hạn hoạt động nhằm tránh bị khó thở. Khi khám BN, bác sĩ sẽ phát hiện ra dấu hiệu của tăng áp lực động mạch phổi qua nghe tim và phát hiện ra suy tim phải (tim to, tĩnh mạch cổ nổi gan to, phù ngoài vi…), tình trạng thiếu oxy mãn tính sẽ gây ngón tay, ngón chân dùi trống hoặc BN bị tím đen như người đen, mắt lồi và đỏ do tăng sinh của các mao mạch máu màng tiếp hợp trông như mắt ếch.

Trong thực tế, các triệu chứng trên sẽ rất khó phân biệt với bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính vì có tăng thông khí ở ngực, tĩnh mạch cổ nổi ở BN bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính cũng khó nhận biết do tăng áp lực trong lồng ngực. Phù ngoại vi có thể do những nguyên nhân khác như giảm albumin máu. Do tăng thông khí nên nghe tim sẽ rất khó phát hiện các tiếng thổi bất thường. Vì thế rất cần đến các xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán tình trạng của tăng áp lực động mạch phổi và rối loạn chức năng thất phải. BN được thực hiện các xét nghiệm: X-quang phổi, siêu âm tim, đo điện tâm đồ, thông tim chụp cộng hưởng từ (MRI)…

Nếu BN được chẩn đoán và điều trị tốt thì bệnh có thể ổn định đến 20 năm. Đối với bệnh phổi mạn tính tiến triển từ từ đưa đến tổn thương chức năng phổi dần rồi gây tăng áp lực phổi suy tim phải. Tiên lượng của bệnh tùy thuộc vào việc kiểm soát bệnh phổi mãn hơn là việc điều trị tăng áp lực động mạch phổi. Ngoài việc điều trị bệnh phổi mãn tính, người bệnh còn được sử dụng liệu pháp oxy, tập thở, loại bỏ yếu tố kích thích (hút thuốc lá), có chế độ ăn uống và nghỉ ngơi phù hợp. BN cần phải tái khám định kỳ để được bác sĩ hướng dẫn cụ thể các vấn đề nêu trên và được điều trị liên tục.

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật