Bệnh bạch hầu, triệu chứng và những điều ít ai biết

Bạch hầu là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính do trực khuẩn bạch hầu Corynebacterium diphtheriae tiết ra độc tố gây nên.

Trực khuẩn bạch hầu rất khỏe, sống rất lâu trong giả mạc và trong họng của những bệnh nhân đang ở thời kỳ lại sức (ở chỗ viêm tới 6 tháng sau cấy vi khuẩn vẫn còn mọc). Người ta cũng thấy nó sống rất lâu (tới vài tháng) trên các đồ chơi của trẻ em bị bệnh bạch hầu trên áo choàng của nhân viên y tế, trong các buồng bệnh điều trị bạch hầu. Tuy nhiên, trực khuẩn gây bệnh rất nhạy cảm với các yếu tố lý hóa. Dưới ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp trực khuẩn bị chết sau vài giờ, ở nhiệt độ 58oC sống được 10 phút, còn trong phenol 1% hoặc cồn chỉ có thể sống được 1 phút.

 Bệnh lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc trực tiếp với người bệnh và người lành mang khuẩn. Những người này mang mầm bệnh trong họng hay trong mũi họng trung bình từ 3-4 tuần, có khi kéo dài hơn 1 năm (khi họ ho hắt hơi trực khuẩn theo các giọt nước bắn sang người lành và làm lây bệnh). Bệnh cũng có thể lây do tiếp xúc với những đồ vật có dính chất bài tiết của người bị nhiễm khuẩn Bệnh bạch hầu không tồn tại miễn dịch chống lại vi khuẩn chỉ duy nhất miễn dịch chống lại độc tố bởi vậy hầu như chỉ người mang vi khuẩn và người bị bệnh bạch hầu có miễn dịch. Miễn dịch do mẹ truyền qua rau thai cho con kéo dài được từ 3-6 tháng sau sinh. Tuy nhiên bệnh có thể xuất hiện ở trẻ sơ sinh nếu mẹ bé đã được tiêm phòng thuở nhỏ, nhưng khả năng miễn dịch ở mẹ đã bị mất.

Biểu hiện của bệnh

Bạch hầu có nhiều thể bệnh như: bạch hầu họng mũi, bạch hầu họng - hạnh, bạch hầu thanh quản, bạch hầu da, bạch hầu tai, bạch hầu mắt...

Bạch hầu họng mũi:

Ở thời kỳ khởi phát, trẻ hơi sốt khoảng 38oC, khó chịu quấy, không chịu chơi, da xanh sổ mũi một bên, họng hơi đỏ.

Thời kỳ toàn phát, đặc điểm nổi bật ở thời kỳ này là sự lan tràn của giả mạc (có khi chỉ vài giờ, đôi khi tới vài ngày). Đầu tiên giả mạc ở một bên amiđan, rồi lan sang bên kia trùm lên nửa hoặc cả lưỡi gà và các cột của màn hầu. Giả mạc trắng hơi xám, dính chặt vào niêm mạc nếu bóc ra sẽ chảy máu, hạch dưới hàm sưng. Bệnh nhân sốt nhẹ, sổ mũi một bên.

Nếu được điều trị kịp thời có hiệu quả, bệnh sẽ diễn biến lành, giả mạc sẽ hết sau 24-48 giờ, khỏi bệnh nhưng còn mang vi khuẩn tới vài tuần, có trường hợp tới 1 năm.

Những trường hợp không được điều trị kịp thời hoặc không hiệu quả, bệnh sẽ tiến triển nặng. Chỉ vài giờ sau khi xuất hiện giả mạc xuất hiện các dấu hiệu nhiễm độc nghiêm trọng. Lúc này giả mạc lan khắp họng, dày, màu xám đen xuất huyết nặng mùi, hạch hai bên cổ họng sưng to đau không di động làm cổ bạnh ra. Ở một số bệnh nhân (10%) có chảy máu mũi, máu lợi. Bệnh nhân đau khi nuốt và uống nước sộc ra mũi. Toàn thể trạng rất yếu, xanh nhợt, sốt 39-40oC, tím môi và tứ chi, mệt lả, nhịp tim nhanh huyết áp hạ, đầu chi lạnh gan sưng to... Bệnh nhân tử vong sau 24-36 giờ, lâu nhất 1 tuần trong tình trạng xuất huyết và suy nhược.

Đối với thể bạch hầu thanh quản: Hiếm có tiên phát, thường hậu phát do không được điều trị kịp thời (sau bạch hầu họng), lứa tuổi hay mắc là từ 2-5 tuổi. Bệnh diễn biến qua 3 giai đoạn.

Giai đoạn khản tiếng: Bệnh nhân sốt nhẹ 38oC, toàn trạng không thấy thay đổi, trẻ chỉ hơi khản tiếng có ho nên thường không được chú ý đến. Dần dần chuyển thành ho ông ổng, tiếng khàn và mất tiếng. Hội chứng ho khan và mất tiếng là một dấu hiệu quan trọng để tiến hành tiêm huyết thanh ngay, nếu không chỉ 1-2 ngày sau bệnh chuyển sang giai đoạn khó thở.

Giai đoạn khó thở: Mới đầu thỉnh thoảng lại xuất hiện cơn khó thở với đặc điểm: khó thở chậm, có tiếng rít, khó thở khi thở vào, chỉ xuất hiện khó thở khi gắng sức (ăn, uống, ho, khóc...) và vào buổi tối hay ban đêm. Hay sau đó xuất hiện khó thở thanh quản liên tục do hẹp thanh quản (do thanh quản bị phù nề xung huyết ở thanh quản và có co thắt các cơ ở họng). Tình trạng bệnh nhi rất nguy kịch, tiến dần tới giai đoạn ngạt. Lúc đầu cần phải mở khí quản ngay.

Giai đoạn ngạt: Trẻ thỉu dần đi, không giãy giụa, trông như nằm ngủ nên dễ nhầm tưởng bệnh đã bớt. Khó thở thay đổi theo kiểu nhanh và nông, không có tiếng rít nữa, nhưng tím tái dần. Đôi khi mặt nhợt nhạt, môi tím, mạch nhỏ yếu, vã mồ hôi rồi chết. Thời gian bắt đầu bị bệnh đến chết khoảng 5-7 ngày (tỷ lệ tử vong cao khoảng 25-70%).

Điều trị: Nguyên tắc điều trị bệnh bạch cầu bao gồm: Trung hòa độc tố (bằng huyết thanh); diệt vi khuẩn (dùng kháng sinh); điều trị hỗ trợ (vitamin C, B16, B12...); điều trị biến chứng; chăm sóc.

Phòng bệnh: Gây miễn dịch cơ bản cho trẻ em dưới 1 tuổi bằng 3 liều vaccin DPT (bạch hầu-ho gà-uốn ván), mỗi liều cách nhau 1 tháng theo lịch tiêm chủng mở rộng hiện hành.

Liều thứ nhất: khi trẻ được 2 tháng tuổi;

Liều thứ 2: khi trẻ được 3 tháng tuổi;

Liều thứ 3: khi trẻ được 4 tháng tuổi.

Sau đó, tùy đặc điểm dịch tễ học bạch cầu ở từng địa phương, nên tiêm nhắc lại khi trẻ được 4-5 tuổi và có thể nhắc lại 1 liều nữa khi trẻ 7-9 tuổi bằng vaccin DT (bạch hầu-uốn ván) hoặc Td (toxoid bạch cầu).

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật