Những lưu ý khi sử dụng thuốc điểu trị bệnh Parkinson

Bệnh Parkinson (liệt rung) có các biểu hiện: run trong lúc nghỉ (run ngón tay, tay); vẻ mặt cứng đờ (các cơ mặt gần như bất động, toát lên vẻ đờ đẫn, tuy vẫn sáng suốt); dáng đi lật bật (từng bước nhỏ, chậm, thân ngã về phía trước); mất hoặc vận động chậm (mất các vận động tự động như đi mà không đánh tay, lựng khựng, ít khi chớp mắt, nói chậm, đều đều, không âm điệu). Người bệnh phải lệ thuộc vào người khác, có tâm lý mặc cảm...

Nguyên nhân: do thiếu chất dẫn truyền thần kinh dopamin, song vì sao thiếu thì chưa rõ. Thường gặp ở người 50-60 tuổi do thoái hóa não. Cũng gặp ở người trẻ hơn do các tổn thương não vì bị độc chất (khí oxid carbon mangan thủy ngân thuốc trừ sâu), vì dùng thuốc (an thần trầm cảm 3 vòng, reserpin), vì chấn thương (ngã, đấu bốc), vì bệnh (bướu viêm não). Các trường hợp này là hội chứng Parkinson thứ phát.

Thuốc thường dùng, những điều lưu ý

Các tế bào kiểm soát vận động sản sinh ra dopamin, chất dẫn truyền thần kinh. Ở người bệnh Parkinson, có sự  thoái hóa các tế bào này, do đó có sự thiếu hụt dopamin. Liệu pháp điều trị: dùng chất làm sinh ra dopamin (levodopa, một tiền chất của dopamin) hoặc dùng chất làm tăng sinh khả dụng của dopamin hoặc dùng các kháng cholinergic.

Nhóm thuốc làm sinh dopamin

Levodopa (L-dopa, L-3,4- dihydropyphenylalanin)

Không dùng trực tiếp dopamin vì không đi qua hàng rào máu não. Levodopa đi qua hàng rào máu não, khử carboxyl, chuyển thành dopamin.

Nếu uống riêng lẻ, levodopa bị khử carboxyl bởi enzyme decarboxylase ở ngay niêm mạc ruột (sự khử carboxyl ngay tại đây gây buồn nôn), chỉ còn khoảng 1% đến với não. Để tránh nhược điểm này, uống phối hợp levodopa với chất ức chế enzyme trên (như carbidopa, benserazide), tiện hơn nữa, kết hợp chúng vào trong một sản phẩm (bd: modopar).

Levodopa kích hoạt u sắc tố ác tính, không dùng cho người có tiền sử hoặc chưa chẩn đoán rõ bệnh này; gây dị tật phủ tạng và xương thai nhi tiết vào sữa và ức chế sinh sữa, tránh dùng cho người có thai, cho con bú; làm tăng nhãn áp không dùng cho người bị glaucoma góc đóng.

Cần bắt đầu dùng levodopa với liều thấp rồi tăng dần đến liều điều trị (tùy theo bệnh, mức dung nạp từng  người), không dùng quá liều (vì xảy ra tăng động). Cần dùng cùng hoặc ngay sau bữa ăn (cần thiết thì dùng với thuốc chống nôn domperidon).

Levodopa tuy có tác dụng tốt, được coi là “tiêu chuẩn vàng” trong chẩn đoán, điều trị (khi dùng levodopa mà các triệu chứng giảm có nghĩa là người đó đúng đã bị bệnh Parkinson, dùng tiếp tục, sẽ có hiệu quả). Tuy nhiên, dùng vài năm, hiệu quả thuốc sẽ kém, khoảng 10 năm sau thì không còn hiệu quả nữa.

Piribedil

Là chất đồng vận với dopamin. Kích thích thụ thể dopamin - D2 phía sau synap của thể vân, làm sinh ra dopamin. Được dùng cho bệnh Parkinson trong giai đoạn đầu. Trị chứng run ở tư thế nghỉ do nguyên nhân ngoại tháp. Dùng một mình hay phối hợp với levodopa.

Liều trị bệnh Parkinson: mỗi ngày uống 20-50mg, nếu nặng có thể dùng tới liều 100-200mg, dùng một lần hay chia thành 2 lần, dùng liều tăng dần.

Piribedil có thể gây một số tác dụng phụ: buồn nôn nôn, đầy hơi, gây hạ huyết áp tư thế đứng.

Không dùng piribedil trong trụy tim mạch, trong nhồi máu cơ tim giai đoạn cấp, trong phù phổi cấp. Không dùng piribedil cho người có thai và cho con bú.

Amantadin

Vốn là thuốc chống virus cúm A. Còn có tác dụng ngăn cản sự tái hấp thu dopamin về nơi xuất phát, làm tăng dopamin ở synap nên dùng điều trị Parkinson. Amantadin tăng cường chức năng dẫn truyền thần kinh còn lại (ở liềm đen và cơ vân), cải thiện tình trạng mất vận động và cứng cơ.

Thuốc làm mất khả năng tập trung và phối hợp vận động, hết sức cẩn trọng với người vận hành máy móc. Cần giảm liều và theo dõi các biểu hiện ngộ độc với người có kèm bệnh gan thận suy tim sung huyết, loạn thần co giật đang dùng thuốc kích thích thần kinh, có tiền sử viêm da eczema hay quá già (> 65 tuổi) Không được dùng cho người động kinh, loạn tâm thần loét dạ dày mang thai cho con bú.

Nhóm thuốc ức chế COMT

Bao gồm các thuốc có tính chất chung là ức chế COMT (catechol-Omethyl transfebrase) làm tăng sinh khả dụng của levodopa, kéo dài thời gian bán hủy của nó. Biệt dược thường dùng là: entecarpone, tolcapone. Khi dùng thuốc này thì giảm được liều dùng levodopa. Nhưng vì thuốc này không trực tiếp sinh ra dopamin nên không thể có hiệu quả khi dùng một mình mà chỉ dùng khi có mặt levodopa.

Tác dụng phụ chủ yếu của nhóm thuốc này là gây tiêu chảy gây rối loạn chức năng gan Lúc dùng cần kiểm tra enzyme gan định kỳ mỗi 2 tuần/lần.

Nhóm kháng cholinergic

Artan (trihexylphenidyl)

Cơ chế tác dụng chưa rõ nhưng được cho là do phong bế các xung động li tâm và ức chế trung tâm vận động.  Thuốc có tính kháng acetylcholin (tương tự như atropin). Khi dùng đúng liều sẽ có các dược tính có lợi cho điều trị Parkinson (chống liệt rung), khi dùng liều cao sẽ gây các phản ứng phụ không có lợi như: giảm tiết nước bọt (khô miệng), gây giãn đồng tử (chói, khó nhìn, tăng nhãn áp), làm liệt cơ mi mắt (không thể điều tiết nhìn gần được, khô nước mắt), làm cho tim lúc đầu đập chậm (do kích thích hành tủy) về sau lại đập nhanh (do tác động lên nút xoang nhĩ). Dùng đúng liều thì artan nghiêng về dược tính có lợi.

Cần bắt đầu dùng artan với liều thấp, rồi tăng dần tới liều điều trị, chia ra 3-4 lần trong ngày (vào các bữa ăn, ngậm thêm kẹo ngọt, uống thêm nước cho đỡ khô miệng).

Những cách điều trị không dùng thuốc

Phần lớn người mắc bệnh ở tuổi già (50-60 tuổi). Thuốc không chữa khỏi nhưng làm chậm quá trình tiến triển bệnh (bảo vệ thần kinh), làm giảm triệu chứng (nâng cao chất lượng sống) nên được chấp nhận.

Tuy nhiên, khi dùng thuốc thất bại thì có thể dùng cách điều trị không dùng thuốc như: phẫu thuật (rạch cầu nhạt, rạch đồi thị), kích thích não sâu (bằng cách tạo ra xung điện nhờ máy và điện cực cấy sẵn dưới da); cuối cùng dùng phương pháp tiên tiến nhất (ghép tế bào gốc vào não để chúng tạo ra các tế bào mới sản xuất dopamin, phương pháp này hiện mới thực nghiệm trên súc vật, chưa áp dụng trên người).

Trong thực tế, thầy thuốc có thể dùng một hay kết hợp nhiều thuốc chữa Parkinson, khi kết hợp thì giảm liều của mỗi thành phần. Nhận biết các biểu hiện bệnh không khó nhưng xác định được nguyên nhân, mức độ là không dễ. Không tự ý dùng hay thay đổi thuốc. Khi thầy thuốc chuyên khoa đã chỉ định, thì cần có hợp tác tốt, tuân thủ nghiêm ngặt y lệnh.

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật