Mùa hè: Đề phòng bệnh lỵ trực khuẩn tàn phá cơ thể bạn

Bệnh lỵ trực khuẩn lây qua đường tiêu hóa. Bệnh nhân đi ngoài hàng chục, thậm chí trăm lần một ngày, bị mất nước và muối, dẫn đến hôn mê và tử vong. Bệnh lây thành dịch. Mùa hè ruồi nhặng phát triển nhiều nên nguy cơ mắc bệnh cao.

Bệnh lỵ trực khuẩn lây qua đường tiêu hóa do vi khuẩn Shigella gây ra. Bệnh nhân bị tiêu chảy nhiều lần, phân có nhầy, máu. Hậu quả là bệnh nhân bị mất nước và muối, dẫn đến hôn mêtử vong Tính chất nguy hiểm của lỵ trực khuẩn là có thể lây thành dịch. Mùa hè ruồi nhặng phát triển nhiều nên nguy cơ lây nhiễm bệnh càng cao.

Lỵ trực khuẩn lây qua đường tiêu hóa

Người là nguồn lưu giữ mầm bệnh duy nhất, gồm các đối tượng: bệnh nhân đang mắc bệnh thể cấp, thể mạn tính; người lành mang vi khuẩn. Trong đó bệnh nhân mắc bệnh lỵ cấp tính là nguồn lây bệnh nguy hiểm nhất, vì họ thải một khối lượng lớn phân chứa vi khuẩn ra ngoài. Song chúng ta cũng thiếu cảnh giác với những bệnh nhân mắc bệnh nhẹ, nên không cách ly họ, không chẩn đoán và điều trị sớm, nên họ cũng là nguồn làm lây bệnh mà ít ai biết đến. Bệnh nhân mắc lỵ mạn tính, thường là trẻ em, cũng là nguồn gieo rắc mầm bệnh ở thời kỳ bộc phát.

Bệnh lỵ trực khuẩn lây trực tiếp hoặc gián tiếp qua đường tiêu hóa. Lây trực tiếp là lây từ bệnh nhân sang người lành, thông qua bàn tay nhiễm khuẩn Lây gián tiếp là lây qua thức ăn, nước uống. Các loại côn trùng như ruồi, nhặng, gián, thạch sùng… làm lây bệnh từ bệnh phẩm sang thức ăn. Mọi người đều có thể lây bệnh, trong đó trẻ emngười già dễ mắc bệnh lỵ nặng, dễ tử vong.

Nhiều thể bệnh lỵ trực khuẩn

Một người bị nhiễm vi khuẩn lỵ, thì thời gian ủ bệnh từ 1 - 7 ngày, sẽ phát bệnh một cách đột ngột, với 2 hội chứng: nhiễm khuẩn và hội chứng lỵ. Hội chứng nhiễm khuẩn gồm các triệu chứng: sốt cao 38 - 39oC, rét run nhức đầu mệt mỏi đau lưng đau khớp ở trẻ em có thể có cơn co giật chán ăn khát nước đắng miệng buồn nôn hoặc nôn. Hội chứng lỵ. gồm các triệu chứng: đau bụng ban đầu đau âm ỉ quanh rốn, sau đau lan ra khắp bụng, cuối cùng là những cơn đau quặn bụng ở hố chậu trái. Các cơn đau quặn bụng làm bệnh nhân mót rặn muốn đi đại tiện ngay. Mới đầu phân sệt, sau loãng, rất thối, lẫn với nhầy và máu. Hoặc phân nhầy nhiều, thường đục nhờ nhờ, có khi phân vàng đục như mủ, máu sẫm như máu cá, nhầy và máu hòa loãng với nhau không có độ bám dính. Hội chứng lỵ có thể diễn ra từ 5 - 10 ngày hoặc hơn.

Trên thực tế người ta phân chia bệnh lỵ thành các thể bệnh như sau:

Thể nhẹ : bệnh nhân có hội chứng nhiễm khuẩn nhẹ hoặc không rõ thân nhiệt 37,5 - 38oC, hơi mệt, có hội chứng lỵ : đau quặn bụng, đi ngoài dưới 10 lần/ngày, bệnh nhân phục hồi trong vòng 1 tuần.

Thể vừa: bệnh nhân có hội chứng nhiễm khuẩn và hội chứng lỵ điển hình. Sốt 38 - 40oC kéo dài từ 1 - 4 ngày đau đầu mệt mỏi, mạch nhanh huyết áp hạ. Đi tiêu chảy từ 15 - 20 lần/ngày, kèm theo dấu hiệu mất nước, với biểu hiện khát nước, môi khô. Điều trị tốt, bệnh nhân sẽ phục hồi sau 7 - 14 ngày.

Thể nặng: hội chứng nhiễm khuẩn rõ rệt, kéo dài hơn 1 tuần. Hội chứng lỵ: đau quặn bụng dữ dội, mót rặn kèm mót đái không kìm được, đi tiêu chảy trên 30 lần/ngày, có khi không đếm được. Bệnh nhân bị mất nước rối loạn điện giải kiệt sức nằm đại tiện tại chỗ, hậu môn mở rộng, phân tự chảy, mắt trũng, mặt hốc hác, mạch nhanh yếu, tiếng tim mờ huyết áp hạ, thở gấp, li bì ngủ gà có thể tử vong sau 3 - 7 ngày. Nếu điều trị thì sự phục hồi chậm và dễ biến chứng.

Ở trẻ dưới 1 tuổi, ngoài những thể cấp như trên, còn gặp thể rất nhẹ, kín đáo, như rối loạn tiêu hóa: phân loãng, không sốt. Thể bệnh lỵ mạn tính: bệnh có những thời kỳ bột phát và thuyên giảm xen kẽ.

Thể dạ dày ruột cấp: bệnh nhân có hội chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc thức ăn, nôn nhiều lần, phân loãng, không có nhầy máu, đau bụng lan tỏa, sau đó bệnh có thể diễn biến như thể lỵ điển hình.

Thể tối độc: bệnh nhân đi ngoài nhiều, phân có nhầy mủ, có khi toàn máu, có thể tử vong trong vài ngày đầu do hôn mê, trụy tim mạch.

Ở người cao tuổi, có thể bệnh lỵ kéo dài không còn giai đoạn thuyên giảm, bệnh càng ngày càng nặng, toàn thân suy sụp dần rối loạn tiêu hóa nặng, thiếu vitamin thiếu máu

Phương pháp điều trị

Điều trị bệnh lỵ trực khuẩn cần phải cách ly bệnh nhân, dụng cụ đều phải dùng riêng. Bù nước và điện giải là biện pháp hàng đầu trong điều trị lỵ trực khuẩn. Thể vừa, bù dịch và điện giải bằng cách uống dung dịch oresol Thể nặng cần truyền dịch Trợ lực dùng vitamin B1, C. Chống đau bụng bằng cách chườm nóng, ngâm mông trong nước ấm để chống đau rát hậu môn. Thuốc có thể dùng gồm: kháng sinh như loại cephalosporin thế hệ 3 (Ceftriaxon), Quinolone thế hệ 1 (Acid nalidixic) hoặc ciprofloxacine, ofloxacine rất hiệu quả. Về chế độ ăn: bệnh nhân chỉ hạn chế trong một vài ngày đầu, sau đó cần trở lại chế độ ăn bình thường từ ngày thứ ba, thứ tư trở đi. Bệnh nhi là trẻ còn bú, vẫn cho bú như thường lệ. Nếu trẻ đang bú sữa bình vẫn cho bú bình thường, không hạn chế số lần uống, số lượng sữa. Đối với trẻ lớn và người lớn, trong vài ngày đầu ăn cháo ninh nhừ, nấu với thịt. Sang ngày thứ ba, thứ tư nên ăn cháo đặc với thịt trứng khoai tây nghiền sữa chua sau đó ăn cơm nát, thịt nạc luộc uống nước hoa quả. Nên tránh thức ăn nhiều bã thảo mộc khô.

Phòng bệnh

Biện pháp quan trọng nhất là phát hiện sớm, cách ly điều trị bệnh nhân lỵ cấp. Bảo vệ người lành: cần theo dõi 7 ngày đối với người tiếp xúc với bệnh nhân. Thực hiện ăn chín uống sôi. Không ăn rau sống không uống nước lã. Rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn uống sau khi đi vệ sinh và tiếp xúc với các đồ vật.

Rửa tay sạch trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và tiếp xúc với đồ vật để phòng bệnh lỵ trực khuẩn

Xử lý các chất thải của bệnh nhân bằng vôi sống 20%, nước vôi 10%. Đồ dùng, quần áo bệnh nhân phải được sát trùng hoặc ngâm Cloramin 2%. Dùng lồng bàn đậy kín thức ăn. Tích cực diệt ruồi, nhặng, gián...

   
Làm Mới
Bài viết cùng chuyên mục
Video nổi bật