Các triệu chứng và nguyên nhân của bệnh viêm mủ màng phổi
Nguyên nhân gây mủ màng phổi
Màng phổi gồm 2 lá: lá thành và lá tạng, giữa 2 lá là khoang màng phổi. Bình thường, trong khoang màng phổi cũng có một ít dịch và rất ổn định (dịch sinh lý bình thường, khoảng 3ml) để cho màng phổi hoạt động dễ dàng, nhịp nhàng, trơn tru và là sự cân bằng các áp lực. Khoang màng phổi bình thường cũng là một khoang có áp lực âm.
Viêm mủ màng phổi có thể là do bị viêm ngay tại khoang màng phổi (viêm thứ phát). Ổ viêm này nếu không phát hiện sớm và điều trị ngay thì nó sẽ phát triển lan ra các vị trí khác của màng phổi và gây mưng mủ. Hầu hết viêm mủ màng phổi là do nguyên nhân thứ phát, tức là sau áp-xe phổi hoặc viêm phổi giãn phế quản dị vật phổi, tắc mạch phổi bội nhiễm hoặc do ung thư phổi
Các quá trình viêm này xảy ra liên tục và càng ngày càng tiến triển (nếu không được điều trị) rồi chúng lan vào hệ thống máu và bạch huyết (gây nhiễm khuẩn máu) đi đến màng phổi tạo nên các ổ viêm và tiến triển thành mủ. Một số bệnh ở thành ngực (vết thương lồng ngực do chấn thương viêm xương sườn áp xe vú...) hoặc bệnh ở trung thất (rò rỉ khí phế quản áp-xe hạch trung thất, rò thực quản) hoặc do tổn thương bộ phận nào đó dưới cơ hoành (áp-xe dưới cơ hoành, áp-xe gan áp-xe quanh thận ) cũng có thể dẫn đến viêm mủ màng phổi. Căn nguyên để gây nên mủ màng phổi là do vi sinh vật (vi khuẩn, virut và vi nấm), riêng vi khuẩn chiếm tỷ lệ từ 5 - 10% viêm mủ màng phổi.
Viêm mủ màng phổi thông thường hay gặp là do vi khuẩn phế cầu (S. pneumoniae) nhưng ở các nước đang phát triển thì viêm mủ màng phổi chủ yếu do vi khuẩn tụ cầu vàng (S. aureus). Đây là loại vi khuẩn có độc lực mạnh, gây bệnh bằng cả nội và ngoại độc tố cho nên bệnh cảnh lâm sàng rất nặng.
Thêm vào đó, tụ cầu vàng là loại vi khuẩn đa đề kháng kháng sinh cho nên rất khó khăn cho việc lựa chọn kháng sinh thích hợp để điều trị nếu như không tiến hành phân lập vi khuẩn và thực nghiệm kháng sinh đồ. Hiện nay, người ta gặp căn nguyên vi khuẩn gây viêm mủ màng phổi rất đa dạng, ngoài tụ cầu vàng, phế cầu, liên cầu (S. pyogenes) thì còn gặp các vi khuẩn gram âm như Salmonella, Pseudomonas aeruginosa (trực khuẩn mủ xanh), Klebsiella pneumoniae, E.coli, Proteus hoặc vi khuẩn lao (M. tuberculosis).
Tất nhiên, không phải vi khuẩn nào cũng có thể xâm nhập màng phổi và gây bệnh mà ra thành ngực hoặc mủ màng phổi rò qua khe liên sườn vào dưới da, sau đó vỡ da và chảy ra ngoài tạo thành lỗ dò mủ ở thành ngực. Bệnh cũng có thể biến chứng thành rò vào phế quản nhu mô phổi. Loại này hay xuất hiện đột ngột đau nhói ngực ho ra máu và ộc mủ ra. Trong trường hợp rò phế quản nếu không cấp cứu kịp thời có thể bị nghẹt thở và tử vong Người ta cũng đã gặp vỡ mủ màng phổi vào thực quản hoặc qua cơ hoành vào ổ bụng gây viêm màng bụng. Viêm mủ màng phổi có thể gây nhiễm khuẩn huyết
Phương pháp điều trị
Viêm mủ màng phổi có thể xảy ra cấp tính nhưng cũng có thể xảy ra dạng mạn tính. Trong trường hợp cấp tính, bệnh xảy ra đột ngột, rầm rộ, sốt cao đau đầu da xanh mệt mỏi gầy sút nhanh do nhiễm khuẩn, nhiễm độc, do mất nước và chất điện giải Tuy vậy, cũng có thể gặp dạng giống cảm cúm nên người bệnh và người nhà dễ bỏ qua dẫn đến bệnh nặng.
Bệnh viêm mủ màng phổi thường xảy ra thứ phát sau các bệnh như áp-xe phổi viêm phế quản bệnh của lồng ngực cho nên các triệu chứng không điển hình. Khám bệnh sẽ thấy gõ đục, rung thanh giảm, rì rào phế nang giảm. Xét nghiệm công thức máu thấy bạch cầu tăng cao. Xquang phổi sẽ thấy màng phổi dày, nếu có tiết dịch thì góc sườn hoành tù.
Siêu âm màng phổi sẽ cho kết quả chính xác hơn nhiều và chính siêu âm cũng giúp cho việc chọc dò hút dịch, mủ thuận lợi và chính xác hơn. Khi không được phát hiện và điều trị tích cực thì bệnh sẽ chuyển sang dạng viêm mủ màng phổi bán cấp và mạn tính.
Lúc này các triệu chứng của bệnh xảy ra từ từ, xuất hiện đau ngực khó thở ho có đờm hoặc khạc ra mủ, mùi hôi (nếu như mủ rò vào phế quản). Cơ thể người bệnh bị suy kiệt nặng. Biến chứng của viêm mủ màng phổi thường gặp là vỡ hoặc chèn ép nhu mô phổi hoặc chèn ép tim Ngoài ra, với các trường hợp viêm mủ màng phổi được chọc hút hoặc viêm mạn tính gây viêm dày dính màng phổi ảnh hưởng lớn đến hô hấp của người bệnh.
Nguyên tắc chung của điều trị là bệnh cấp tính thì điều trị bảo tồn, mạn tính thì can thiệp bằng ngoại khoa càng sớm càng tốt. Cần sử dụng kháng sinh thích hợp kèm theo nâng thể trạng và các loại thuốc chống viêm khác.
- Cảnh báo: Sức khỏe nguy hại vì dị vật "ở lại" trong... (Chủ nhật, 15:00:03 02/08/2020)
- Cảnh báo: Hãy bảo vệ thận của bạn khi còn có thể! (Thứ bảy, 17:00:00 01/08/2020)
- Hết đau lưng trong 7 phút với 8 bài tập yoga đơn giản (Thứ năm, 16:16:01 09/07/2020)
- Người bị bệnh bạch hầu nên ăn và cần kiêng kỵ những món... (Thứ Ba, 00:17:03 07/07/2020)
- BS Đặng Phương Liên: Xử lý tình trạng bong da (Thứ tư, 14:10:03 27/02/2019)
- Phẫu thuật cắt bỏ phổi và những điều bạn nhất định... (Thứ tư, 14:05:02 27/02/2019)
- Rắn lục đuôi đỏ và cách phòng tránh hiệu quả nhất (Thứ tư, 08:55:03 27/02/2019)
- Tổng quan về sốc phản vệ mà không phải ai cũng biết (Thứ Ba, 16:15:03 26/02/2019)
- Cách xử lý vết thương do bị vật nhọn đâm hiệu quả nhất (Thứ Ba, 16:05:02 26/02/2019)
- Tụ cầu khuẩn: Hiểm họa trong mùa nóng nên đề phòng (Thứ Ba, 15:50:00 26/02/2019)
-
Đồ Chơi Pop it bóp bóp Bấm Nút Bóp Bóng - Pop It
Thứ tư, 20:15:06 15/02/2023
-
Đồ chơi bộ hộp sét 6 món ô tô máy bay chạy cót xịn xò
Thứ Hai, 18:18:08 13/02/2023
-
Máy gắp thú bông cho bé cỡ lớn BBT GLOBAL
Chủ nhật, 15:54:03 12/02/2023